Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa:  Kinh nghiệm thế giới và thực trạng Việt Nam

Đăng ngày

Chia sẻ:

Kinh nghiệm thế giới – Tài chánh và Những khoảng cách

(Tham luận tại Hội thảo Khoa học ĐH Tôn Đức Thắng, 16-6-2012)

Các ‘động cơ tự hành’ của nền kinh tế

 

Gần đây trước thực trạng thua lỗ lớn và hoạt động kém hiệu quả kéo dài của nhiều doanh nghiệp nhà nước, tư duy về định hướng phát triển kinh tế quốc gia đang có chiều hướng thiên về nguồn lực kinh tế tư. Đặc biệt, sau nhiều phân tích của giới học thuật và nhà kinh tế, mới đây tại Kỳ họp khoáng đại lần thứ 3 Quốc Hội khóa XIII (giữa năm 2012), Ủy Ban Kinh tế Quốc Hội đã đưa vấn đề lên bàn nghị sự với chủ trương tập trung nguồn lực cho khu vực kinh tế tư…

Giả định khu vực kinh tế tư sẽ được xác định là lực lượng dẫn dắt phát triển kinh tế quốc gia thì ý nghĩa kinh tế quốc dân sẽ được tô đậm. Lúc này, ngoài yêu cầu phải có sự tập trung cải cách và chuyển hóa các yếu tố cơ bản liên quan đến nguồn lực quốc gia để xây dựng các lãnh vực nền tảng với sự tham gia của các đầu tàu mới (các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế lớn của khu vực tư hoặc công-tư) thì việc xác lập cơ chế nuôi dưỡng lực lương doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sẽ cần đặt lên mức ưu tiên hàng đầu. Tại sao? Vì theo kinh nghiệm của nhiều nước đi trước lực lượng dẫn dắt kinh tế phát triển (driving force of economic development) được xác định là từ  nền tảng các DNNVV. Có thể ví lực lượng doanh nghiệp DNNVV trong nền kinh tế như khối đế thấp tầng (podium) của một quần thể kiến trúc. Tuy không nổi bật, phần nền rộng lớn này vừa sắm vai là hạ tầng thiết yếu cho cộng đồng cư dân, vừa là chân trụ vững chắc cho các khối tháp cao vươn lên…

Trên thế giới không có nền kinh tế nào dám xem nhẹ lực lượng DNNVV, kể cả các nước có thời kỳ phát triển dựa vào các doanh nghiệp lớn (LEs /large enterprises) như Âu Mỹ, Nhật hay Hàn Quốc.

Trong một tài liệu viết cách đây 8 năm, đăng 3 kỳ trên VietnamNet và được đưa vào sách in, tôi đã gọi lực lượng này là những “động cơ tự hành” (*). Lực lượng này phủ đều theo địa dư kinh tế một nước, là lực lượng nền tảng hùng mạnh có sứ mệnh làm giàu cho một quốc gia, chống đỡ và duy trì yêu cầu bền vững cho một nền kinh tế. Vào các thời kỳ lạc quan tăng trưởng, DNNVV là đội quân sung sức nhất trong mặt trận sản xuất kinh doanh, đánh thức mọi tiềm năng và lợi thế kinh tế nói chung, bất kể ở tuyến trước hay tuyến sau (tuyến hỗ trợ). Gặp lúc sóng gió (khủng hoảng hay suy thoái) lực lượng này được xem như bộ giảm sốc giúp nền kinh tế bớt chao đảo. Ngoài vai trò kinh tế thuyết phục, khả năng bền bỉ, tiên phong, sáng tạo, và sự đóng góp không nhỏ vào giá trị sản lượng quốc gia, DNNVV có vai trò nổi trội về an sinh xã hội, đáp ứng đa dạng nhu cầu sinh hoạt dân cư, đặc biệt là về công ăn việc làm.

Đặt động lực phát triển vào khu vực kinh tế tư với nền móng DNNVV như vậy, các nước đi trước đã có sự tập trung về chính sách và hành động từ cao xuống thấp, rất cụ thể, chi tiết và xuyên suốt từ khâu khởi nghiệp, hoạt động, đến các bước phát triển lớn mạnh của DNNVV, chứ không chỉ hỗ trợ lúc doanh nghiệp lâm vào khó khăn, bế tắc. Do bản chất qui mô là vừa, nhỏ và siêu nhỏ, DNNVV thường có nhiều mặt hạn chế (hay hữu hạn) cần được tiếp sức trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sự quan tâm của các nhà nước do đó đã không dừng lại ở việc hỗ trợ mà được nâng lên thành quốc sách chăm sóc và nuôi dưỡng (fostering) dành cho DNNVV. Ta hãy xem cách làm của một số nước…

 

Kinh nghiệm, cơ chế hỗ trợ và nuôi dưỡng DNNVV

Ở Nhật, chính sách nuôi dưỡng DNNVV có từ thời kỳ tái thiết đất nước sau sự tàn phá của chiến tranh thế giới lần thứ hai (reconstruction period, từ 1945 ~ 1954), bắt đầu bằng các hoạt động nghiên cứu thực trạng và tư vấn hướng dẫn (diagnosis and guidance) về tài chánh, cải thiện /nâng cấp tổ chức và về hoạt động quản trị doanh nghiệp. Năm 1948, Nhật thành lập tổ chức SMEA (Small and Medium Enterprise Agency), là cơ quan đặc trách DNNVV. Từ đó đến nay họ liên tục đặt ra các chương trình thúc đẩy và cải cách DNNVV (SMEs) nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước, thích ứng với từng thời kỳ kinh tế. Chiến lược phát triển DNNVV của Nhật sau thời tái thiết có nhiều giai đoạn đặc thù tiếp theo. Trong đó có hai giai đoạn phát triển ‘thần kỳ’ (high growth period 1955-1962 và 1963-1972), một giai đoạn phát triển củng cố hay ổn định (stable growth period 1973-1984), và hai giai đoạn chuyển hướng (transition period 1985-1999 và 2000 đến nay).

Nhật có Luật về SME từ năm 1963. Và, giống như Mỹ, để mở rộng cơ hội cho SMEs có được các đơn đặt hàng từ chính phủ và các cơ quan /tổ chức công khác, hằng năm quốc gia này có các quyết nghị chỉ thị cho chính phủ và các cơ quan công quyền khác lên kế hoạch cụ thể dành các hợp đồng sẽ thực hiện với DNNVV. Căn cứ nội dung chỉ thị này nhà nước sẽ có các biện pháp để việc thực hiện có hiệu lực, như cung cấp thông tin công khai các đơn đặt hàng hay các yêu cầu cung ứng liên quan (dành cho SMEs) do chính phủ và các cơ quan đưa ra.

Ở Mỹ, Luật Doanh nghiệp nhỏ (Small Business Act) có từ năm 1953, với việc thành lập Cơ quan Đặc trách Doanh nghiệp nhỏ SBA (Small Business Administration) thuộc Chính phủ và được giao phó thực hiện bốn chức năng hỗ trợ DNNVV, gồm:

(1) Tạo điều kiện dễ dàng cho DNNVV tiếp cận vốn,

(2) Phát triển doanh nhân doanh nghiệp,

(3) Tạo điều kiện ký hợp đồng với chính phủ, và

(4) Công tác tán trợ /cổ xúy, bênh vực quyền lợi (advocacy) cho DNNVV.

Tuy được phân ra thành bốn nội dung như vậy, DNNVV được trợ giúp hầu như mọi mặt hoạt động, như quản trị, huấn luyện đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật, miễn giảm thuế… Chỉ riêng lãnh vực “3”, việc tạo điều kiện ký hợp đồng cung ứng cho chính phủ, SBA đã đề ra chỉ tiêu với các bộ và cơ quan chính phủ phải dành ra 23% giá trị các hợp đồng cung ứng lớn cho DNNVV, xem đây như mục tiêu bắt buộc hay chỉ tiêu pháp lệnh (statutory goal) mà các bộ và cơ quan cần tuân thủ. Bên cạnh hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, SBA cũng chú trọng giúp cả người khởi nghiệp có ý tưởng khởi nghiệp. SBA còn là nơi có thể cậy nhờ của những thanh niên đã tốt nghiệp đại học và cộng đồng dân cư các chủng tộc, và những ai muốn thực hiện “giấc mơ Mỹ” (American dream) theo như cách quảng bá của cơ quan này.

Luật DNNVV và tổ chức đặc trách DNNVV là các cơ sở hạ tầng vĩ mô thiết yếu cho quá trình nuôi dưỡng và phát triển nguồn lực của một quốc gia. Có thể kể thêm nhiều nước khác nữa đã có các hạ tầng này.

Hàn Quốc với “SMB basic law, 1966” và Cơ quan đặc trách SMBA. Đài Loan có Luật DNNVV (SME Development Statute) năm 1991, với cơ quan chính phủ đặc trách là SMEA (Small and Medium Enterprise Administration). Đài Loan luôn xem DNNVV là lực lượng cột trụ hay xương sống (backbone) cho kinh tế công nghiệp của lãnh thổ này. Thống kê từ năm 1994 đến 2002 DNNVV tại đảo quốc Đài Loan đã tăng từ con số 932.852 lên 1.104.706; tỷ trọng trên tổng số doanh nghiệp từ 96,26% tăng lên 97,72%. Thống kê mới nhất (2012).cho biết số DNNVV của Đài Loan nay đã lên đến 1.236.000 doanh nghiệp. Tại lãnh thổ Hồng Kông, tính đến 12-2011 tổng số DNNVV đang hoạt động vào khoảng 300.000 doanh nghiệp, chiếm trên 98% tổng số doanh nghiệp hiện có tại đây. Lực lượng này cung ứng 1.200.000 việc làm cho xã hội.

Thái Lan tuy có “SME Promotion Act” năm 2000, nhưng kể từ 1991 họ đã có DIP (Department of Industrial Promotion) thuộc Bộ Công Nghiệp, đại diện cho chính phủ đặc trách về DNNVV. Ngoài ra, Thái Lan còn có SIFC (Small Industry Finance Corp.) thành lập năm 1991, là tiền thân của SME Development Bank thành lập năm 2002; và ISMED (Institue for SME Development) thành lập năm 1999. Các tổ chức này là chỗ dựa tốt cho DNNVV của Thái Lan.

Ấn Độ có Luật MSMD Act (Micro, Small and Medium Development Act) năm 2006 và tổ chức tán trợ  cho DNNVV là “SME Chamber of India”. Trước những diễn biến kinh tế khó lường và tình trạng cạnh tranh khốc liệt, đặc biệt là để thích ứng với những thăng trầm và thử thách của kinh tế thế giới, Ấn Độ đã khuyến khích các cộng đồng doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), nhỏ và vừa (MSME) tập hợp lại thành nghiệp đoàn hay cụm nghề nghiệp (cluster) theo ngành kinh tế hoặc theo địa phương. Việc này đồng thời cũng là để hỗ trợ cho việc lập chính sách, đề ra các kế hoạch tiếp trợ của chính phủ dành cho các DNNVV được chính xác, phù hợp hơn với thực tế từng ngành, từng địa phương và cho từng giai đoạn. Hiện nay Ấn Độ có 400 nghiệp đoàn hay cụm DNNVV như vậy, cùng với 2000 cụm nghề thủ công (artisan cluster). Các nghiệp đoàn và hội ngành nghề của Ấn Độ ước tính đã đóng góp 60% giá trị xuất cảng hàng chế biến của Ấn Độ. Đặc biệt, hầu như toàn bộ ngành chế tác đá quý và trang sức của Ấn Độ là do các cộng đồng MSME (doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa) nắm trọn. Một số ngành nghề đặc thù khác, ví dụ ngành da và sản phẩm da, các nghiệp đoàn MSME của Ấn Độ có thể năm tới 90%.

 

 

 

Một số thông tin SMEs tại các nước tiên phong

 

 

Nước

Loại

doanh nghiệp

Số

doanh nghiệp

%

Số

lao động %

Doanh

 số

%

Định nghĩa

(lao động)

Chính sách dành

cho SME

 

US (1992)

SME

LE

99.7

0.3

53.0

47.0

51.0

49.0

(1996)

<500

Tài chánh, Ưu đãi thuế,

R&D, Tư vấn

Mua sắm chính

phủ….

England (1996)

SME

LE

99.8

0.2

59.0

41.0

56.3

46.7

(1989)

<250

Tài chánh, Ưu đãi thuế,

R&D, Phân tích

và Tư vấn …

(Diagnosis &

Guidance)

Germany(1996)

SME

LE

99.6

0.4

57.0

43.0

50.0

50.0

(1994)

<250

Tài chánh,Ưu đãi thuế,

R&D, Tư vấn ,

Hỗ trợ khởi nghiệp

Mua sắm chính

Phủ., Huấn luyện …

France (1996)

SME

LE

99.8

0.2

66.0

34.0

62.0

38.0

(1994)

<250

Tài chánh, Ưu đãi thuế,

R&D, Tư vấn ,

Hỗ trợ khởi nghiệp

Mua sắm chính

Phủ., Huấn luyện

Italy (1996)

SME

LE

99.9

0.1

80.0

20.0

76.2

23.8

(1991)

<250

Tài chánh, R&D, Huấn luyện

Hỗ trợ tích lũy…

 

EU (1996)

SME

LE

99.8

0.2

66.0

34.0

<250

Tài chánh,R&D,

Tư vấn ,

Hỗ trợ

khởi nghiệp

 

Japan (1994)

SME

LE

99.1

0.9

78.0

22.0

51.3

48.7

(1995)

<300

Tài chánh, Ưu đãi thuế,  R&D,

Tư vấn , Huấn luyện

đào tạo, Phân tích /

Tư vấn

Mua sắm chính phủ

 

Nguồn: Sách trắng SME, Nhật Bản, 1998

 

Kinh nghiệm về tài trợ DNNVV

Tuy mỗi nước có thể có các hình thức hỗ trợ và phát triển DNNVV khác nhau, nhưng nhìn chung có thể khái quát các cơ chế và nội dung có tính khuôn khổ phổ biến dành cho DNNVV như sau:

 

Cơ quan Đặc trách SME Khung chính sách SME Luật Cơ sở SME

 

                   
     
 
   

Thuế

 

 

 

Ưu đãi thuế

 
 

Hỗ trợ kỹ thuật

 

R&D

Tư vấn

Huấn luyện

 
 

Trợ giúp quản trị

 

Hỗ trợ khởi nghiệp. Đào tạo nhân lực. Xúc tiến thị trường

Hỗ trợ thông tin

 
 

Tài chánh

 

 

Cho vay

Bảo lãnh tín dụng

Quỹ mạo hiểm

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Riêng về phương diện vốn /tài chánh, hầu như DNNVV ở đâu trên thế giới, kể cả tại các nước đã phát triển như Nhật Bản hay Hoa Kỳ, cũng đều có những khó khăn nhất định và thường giống nhau. Thực tế này dễ hiểu. Đó có thể là do đặc điểm “thân cô thế cô” vào thời gian đầu khởi lập. Do vai trò là “phụ trợ”, thuộc lãnh vực công nghiệp phụ trợ, mà bản thân qui mô chỉ có tính công đoạn (chỉ sản xuất một ít chi tiết cho các sản phẩm hoàn chỉnh trong các chuỗi cung ứng) và chủ trương của các nghiệp chủ là ổn định hơn là làm ăn lớn. Do tầm vóc và vị thế uy tín chưa bằng ai. Do nhiều thực thể DNNVV đang sức lớn nên có nhu cầu vốn /tài chánh cao trong khi ‘tư cách’ đi vay lại thấp.

Ttư cách đi vay lại thấp, hay khó vay, vì tài sản của họ chỉ là những thứ “có chân có cánh”, không cố định hay quá “hẻo” về giá trị nên rất khó lọt vào tầm ngắm theo chuẩn mực cho vay của các ngân hàng… Đặc biệt, các doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp trẻ mới chào sân (mới tham gia thị trường), cho dù họ có ý tưởng tốt, dám nghĩ dám làm (enterprising), nhưng chỉ với “chiếc xe đạp” mà đi gõ cửa ngân hàng thì sẽ khó tạo được “credit” (niềm tin) để cậy nhờ tín dụng.

Tuy tình cảnh phổ biến là vậy, lực lượng DNNVV lại hùng hậu, có đầy sức sống, lại quá cần thiết đối với hoạt động phát triển kinh tế một nước nói chung (là các nền kinh tế thị trường thuộc mọi chính thể). Ý nghĩa đóng góp và vai trò xã hội của lực lượng này như thế nào thì, không cần luận cứ, đâu đâu cũng đã rõ. Cho nên yêu cầu tiếp sức từ phía vĩ mô là không thể thiếu, đặc biệt là về tài chánh, và điều này từ lâu đã trở thành một mảng việc chính thức của các nhà nước.

Từ những năm ‘40s, Nhật đã có chủ trương tăng cường chức năng hỗ trợ tài chánh cho DNNVV thông qua các tổ chức tài chánh thuộc chính phủ. Một mặt, chính phủ đẩy mạnh các dự án nâng quy mô tín dụng, mặt khác hướng dẫn các tổ chức tài chánh tiền tệ khu vực tư thực hiện cho vay thích đáng, đúng đối tượng đối với nhu cầu tài trợ của DNNVV (thông qua cơ chế bảo lãnh). Nhiều biện pháp hỗ trợ cần thiết khác liên quan đến việc huy động vốn /tài chánh cũng được chú trọng. Chẳng hạn, các Công ty Đầu tư và Tư vấn (trực thuộc chính quyền địa phương) có cơ chế bảo lãnh phát hành cổ phần, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có đảm bảo cho DNNVV trong quá trình doanh nghiệp tham gia thị trường vốn (thường là với các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 300 triệu yen).

Mặt khác, trong các điều kiện kinh tế khó khăn và một DNNVV nào đó bị mất khả năng thanh toán đối với các khoản vay ngân hàng (tất nhiên sẽ cần thêm yếu tố minh bạch và lương thiện) thì nhà nước có thể sẽ thực hiện các biện pháp can thiệp cần thiết để đem lại sức sống cho doanh nghiệp đó.

Ở Mỹ, Cơ quan Đặc trách doanh nghiệp nhỏ của Chính phủ (SBA) cung cấp cho các DNNVV một dãy tài trợ tài chánh dành riêng và được lập sẵn cho cộng đồng doanh nghiệp này, từ các nhu cầu tài chánh nhỏ lẻ với các khoản vay siêu nhỏ (micro lending) đến các khoản vay lớn, và cả các khoản đầu tư trực tiếp thông qua các quỹ đầu tư. Hoạt động này được tiến hành thông qua hình thức tài trợ trực tiếp, bảo lãnh vay, cứu trợ lúc doanh nghiệp bị tai họa… Thống kê từ 1953 đến 2006 ở Mỹ có 20 triệu DNNVV đã trực tiếp hay gián tiếp hưởng lợi từ hoạt động hỗ trợ của SBA. Cụ thể hơn, theo thống kê năm 2006 với 219.000 khoản vay trong danh mục của SBA đã có giá trị hơn 45 tỷ USD.

Tại Hàn Quốc, kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997, khi nhà nước có chủ trương chuyển sang sử dụng và tập trung nguồn lực cho DNNVV để ổn định vĩ mô, để vượt qua khủng hoảng và lấy lại lợi thế cho nền kinh tế, chính phủ nước này đã xác định nguồn lực phát triển dẫn đạo sẽ là các DNNVV thay vì là các doanh nghiệp lớn (economic growth led by SMEs rather than LEs). Sau 10 năm kể từ năm 1997, sự tập trung này đã đưa tổng số dư bảo lãnh tín dụng dành cho các DNNVV của các tổ chức trực thuộc chính phủ Hàn Quốc vào năm 2006 lên tới 45.000 tỉ won (năm 1997 là 17.000 tỉ). Riêng trong ngành chế tạo chế biến, nguồn tài trợ đối với DNNVV có tỷ lệ cao tuyệt đối, gồm 71,9 % từ ngân hàng (được các tổ chức thuộc chính phủ bảo lãnh) và 24,8% từ các khoản cho vay chính sách (policy loans); còn lại là vốn riêng của doanh nghiệp, do doanh nghiệp vay từ người quen biết, vay nước ngoài hay từ các định chế tài chánh khác.

Hàn Quốc cũng có các kênh cho DNNVV trong một số ngành chọn lọc (công nghệ cao hoặc có ý nghĩa dân sinh) vay với lãi suất đặc biệt ưu đãi. Tỷ lệ huy động vốn trên TTCK của DNNVV nước này thấp, chỉ hơn 40% tổng nguồn vốn huy động của DNNVV. Từ năm 2000 nguồn này đã suy giảm mạnh, từ 42,9% cuối năm 2000 xuống còn 27,9% tháng 11-2007 – Số tuyệt đối từ 6.343 tỉ won năm 2000 xuống còn 4.184 tỉ won năm 2007. Dù sao đây vẫn là nước đã tận dụng tốt thị trường vốn (capital market) cho DNNVV. Họ làm được điều này là nhờ các định chế tư vấn trung gian hỗ trợ chuyên nghiệp và môi trường kinh doanh của DNNVV minh bạch.

 

Tài trợ SME từ thị trường cổ phiếu và trái phiếu tại Hàn Quốc

 (đơn vị: tỉ won –  %)

Năm

 

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

1 ~ 11

Cổ phiếu

 

Les

8,006 (55.8)

9,074 (74.5)

6,885 (74.3)

8,642 (77.7)

6,508 (78.6)

3,775

(55.8)

3,714

(57.1)

10,806

(72.1)

 

SMEs

6,343

(44.2)

3,098 (25.5)

2,379 (25.7)

2,475 (22.3)

1,771 (21.4)

2,988 (44.2)

2,785 (42.9)

4,184 (27.9)

 

Tổng cộng

14,349

(100.0)

12,172

(100.0)

9,264

(100.0)

11,117

(100.0)

8,279

(100.0)

6,763

(100.0)

6,499

(100.0)

14,990

(100.0)

Trái phiếu

Les

17,268

(97.7)

39,699

(99.1)

23,447

(98.2)

18,251

(99.5)

26,109

(99.6)

21,930

(99.0)

16,963

(98.9)

19,670

(96.7)

 

SMEs

400

(2.3)

354

(0.9)

418

(1.8)

89

(0.5)

98

(0.4)

225

(1.0)

197

(1.1)

669

(3.3)

 

Tổng cộng

17,668

(100.0)

40,052

(100.0)

23,866

(100.0)

18,340

(100.0)

26,207

(100.0)

22,155

(100.0)

17,160

(100.0)

20,339

(100.0)

Nguồn: Cơ quan Giám sát Tài chánh Hàn Quốc

Điều đáng ghi nhận hơn ở Hàn Quốc là sự tập trung cao độ và bền bĩ từ thượng tầng vĩ mô. Với họ (Chính phủ Hàn Quốc), chức năng phát triển kinh tế đơn giản là thiên chức dọn đường chỉ hướng, là việc chắp cánh cho doanh nghiệp nói chung và tạo điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng DNNVV nói riêng, thay vì là trực tiếp kinh doanh… Xin mở ngoặc, nuôi dưỡng ở đây mang ý nghĩa là “foster”không sinh mà dưỡng, chứ không như “nurse” là chỉ có sinh mới có dưỡng (theo cách doanh nghiệp nhà nước). Nhờ vậy, hễ DNNVV khó khăn là có ngay sự tập trung.

Về hạ tầng luật lệ, ngoài Luật nền tảng về SME 1966, Hàn Quốc có Luật Hỗ trợ Khởi nghiệp SME 1980 (Small and Medium Enterprise Start-Up Supporting Law), Luật Hỗ trợ Tài trợ Công nghệ mới 1986 (New-Technology Business Financing Supporting Law), là cơ sở ra đời các quỹ mạo hiểm SMESFCs (small and medium enterprise start-up financing companies) để hỗ trợ khởi nghiệp, và các quỹ mạo hiểm NBFCs (new-technology business financing companies) hỗ trợ lãnh vực công nghệ mới.

Sau khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 (và ngay trong năm này) họ có Luật về các biện pháp đặc biệt nuôi doanh nghiệp mạo hiểm (venture business) với “Special Measures Law for Fostering Venture Businesses” để duy trì sự cạnh tranh về kỹ thuật công nghệ với thế giới. Sau những năm 2000, với tình trạng vỡ bong bóng “dotcom”, lo ngại sự xuống dốc lãnh vực sáng tạo (innovation) chính phủ nước này đã công bố Chính sách quốc gia “Nuôi dưỡng doanh nghiệp mạo hiểm” (Fostering Venture Companies policy) vào tháng 12 năm 2004.

Về cho vay chính sách, họ có các tổ chức và cơ chế được phân cấp thực hiện cụ thể như IBK (Ngân hàng Công nghiệp HQ), SBMA (Small and Medium Business Administration), SBC (Small Business Corporation), và các Bộ (ví dụ Bộ Thông tin Truyền thông /MoIC chỉ cấp các khoản vay cho hoạt động R&D có mục đích thương mại hóa công nghệ trong lãnh vực đa phương tiện, truyền thông, bán dẫn, và các ngành công nghiệp IT). Về bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, có KODIT (Korea Credit Guarantee Fund), KIBO (Korea Technology Credit Guarantee Fund, cho SME lãnh vực công nghệ), LCGFs (Local Credit Guarantee Foundations theo địa phương).

Có thể kể thêm một các tổ chức tài trợ tài chánh mạo hiểm khác dành cho DNNVV như KTAC (KIBO Technology Advancing Capital Corporation), KTDC (Korea Technology Development Corporation), KDIC (Korea Development Investment Corporation), KTFC (Korea Technology and Finance Company là tiền thân của Korea Technology and Banking – KTB)… Điều đáng nói là, cho dù các tổ chức vừa nêu có là của nhà nước, nhân sự tại các tại đó vẫn được chọn thuê ngoài theo yêu cầu chuyên nghiệp.

Với các doanh nghiệp tiên phong sáng tạo (innovatives SMEs), các doanh nghiệp tiến công hay tăng trưởng (growth businesses) thì theo đặc tính sẽ rất khó vay ngân hàng theo các thể thức thông thường do dòng tiền mặt (cash flow) của loại doanh nghiệp này thường là âm, do mô hình kinh doanh chưa rõ ràng, rủi ro cao… Các doanh nghiệp này sẽ được khuyến khích tìm vốn ở các nguồn mạo hiểm có chủ trương đầu tư trực tiếp (equity) hay từ các nguồn tương tự như “mezzanine equity”, là loại ”vốn đoạn giữa” (giữa senior bond và common share, như subordinated debt /nợ chót bảng và preferred equity /vốn ưu đãi).

 

Nhìn lại DNNVV Việt Nam – Một số kiến giải…

Tại Việt Nam, cho dù cơ chế thị trường chỉ được tái lập khoảng hơn 20 năm nay, dù khu vực kinh tế tư được xếp vào vai trò thứ yếu, số lượng DNNVV trong nền kinh tế đã tăng khá mạnh kể từ sau khi có Luật Công ty 1990, đạt khoảng 500.000 DN vào đầu năm 2011 (chưa kể gần 3 triệu hộ kinh doanh cá thể và khoảng 133.000 trang trại, hợp tác xã). Theo các số liệu thống kê phổ biến trên báo chí, DNNVV chiếm tỷ trọng 97% trên tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, sử dụng hơn 50% lao động, sản xuất 40% hàng tiêu dùng và để xuất cảng, đóng góp 47% GDP và 40% ngân sách… Nhưng nhìn chung, DNNVV tại Việt Nam vẫn còn ở thế yếu, trong tình trạng “tự bơi tự phát”, và sự quan tâm chăm sóc của nhà nước tuy có nhưng chừng mực, rời rạc và không có sự nhất quán…

Chúng ta chưa có Luật về DNNVV, chưa có cơ quan đặc trách thực thụ cấp chính phủ, chưa có ngân hàng hoặc các quỹ chuyên biệt phục vụ DNNVV… Cho dù Nghị định 56/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ giúp DNNVV được ban hành nay đã hơn ba năm (tính ở thời điểm 2012), với gần đủ các ‘nội dung’ mà các nước đi trước đã làm (thực ra chỉ mới ở dạng “đề cập”), việc triển khai – đặc biệt là về mặt trợ giúp – gần như vẫn còn là ý định, mới dừng ở chủ trương kế hoạch hay như lời kêu gọi. Tình trạng không như mong đợi do ở nguồn lực hạn chế một phần, phần khác là từ ở khâu triển khai, từ cơ chế chính sách thực hiện, và lớn nhất là do quan điểm chưa xem trọng lực lượng kinh tế nền móng này là chủ lực để có sự tập trung…

Không có sự quan tâm đúng mức, thiếu những cánh tay chuyên trách để trung chuyển chủ trương chính sách xuống cơ sở, việc phân loại, thẩm định và nhận dạng đúng đối tượng cần hỗ trợ hay tiếp cứu (là khâu quyết định hiệu quả thực thi) cũng không hay chưa được chú trọng. Do vậy, dù biết rất rõ là lâu nay các DNNVV ở ta găp khó khăn, nhưng tiếp cứu ai, hỗ trợ thế nào cho đúng chỗ thì chịu. Doanh nghiệp nào biết ‘đường đi nước bước’ thì nhờ, không biết thì chờ… Thực trạng này có thể kiểm chứng được.

Theo một điều tra của Cục Thống kê TPHCM tiến hành từ 10-4-2012 đến 10-5-2012, chỉ có 43,9% DNNVV biết có chính sách ưu đãi cho vay với đối tượng này, nhưng chỉ có 9,4% trong số họ vay được với lãi suất rẻ như Ngân hàng Nhà nước yêu cầu. Nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa đến thời điểm điều tra vẫn còn phải vay với lãi suất cao hơn 19% (Saigon Times Daily, 25-5-2012).

Yêu cầu phân định các mảng DNNVV theo ngành, theo lãnh vực cần tập trung khuyến khích, cùng với việc đặt ra các tiêu chí rõ ràng để thực thi, sẽ giúp nền kinh tế sử dụng tối ưu các nguồn lực hữu hạn, đem lại hiệu quả cao nhất cho một chủ trương hay chính sách. Bên cạnh đó, với hiệu lực sinh hoạt nội bộ của chính các tổ chức DNNVV tại cơ sở (nghiệp đoàn hay hội ngành nghề) cũng sẽ tạo được sự công bình tối thiểu và cần thiết trong nội bộ các cộng đồng được thụ hưởng một chủ trương chính sách nào đó. Đây là những nội dung rất được các nước chú trọng trong quá trình lập chính sách và triển khai.

Ở Malaysia, việc định nghĩa và xếp loại DNNVV được thực hiện theo các tiêu chí rất chi tiết bằng một văn tự riêng do Hội đồng Phát triển SMA Quốc gia (NSDC, đứng đầu là Thủ tướng) phê chuẩn. Bộ tiêu chí này bao gồm cả khu vực nông nghiệp nhất đẳng (primary agriculture). Ở Hàn Quốc, DNNVV thuộc lãnh vực chế tạo (manufacturing – là lãnh vực được khuyến khích) có thể được tài trợ – bởi nhiều nguồn – đến trên 90%, trong đó có nhà nước và bảo lãnh nhà nước. Làm được như họ thì hiệu lực của chính sách mới cao.

Những hụt hẫng từ hỗ trợ vĩ mô tại Việt Nam là thực tế, nhưng đó mới chỉ là một phía của vấn đề. Phía còn lại nằm ngay ở bản thân các DNNVV, ở thực trạng thành lập và hoạt động doanh nghiệp. Do vậy, có lẽ ta cũng nên có cái nhìn sâu và phân tích kỹ lại thực trạng DNNVV để, nếu cần, thì sẽ có cách điều chỉnh, thay đổi hay cải thiện. Cũng là  để cho việc xử lý thông tin tốt hơn, khách quan hơn.

Trước tiên, cần có một sự rà soát và đánh giá lại toàn diện (ở tầm vĩ mô) về qui mô và thực lực DNNVV của Việt Nam để có bức tranh rõ ràng hơn về nguồn lực này nhằm phục vụ cho việc làm chính sách. Việc thống kê doanh nghiệp mà chỉ dựa đơn thuần trên số lượng đăng ký kinh doanh thường là không chính xác. Theo thông tin trên báo chí thì con số thực là 500.000 DNNVV hay chỉ trên 200.000 (vào thời điểm viết bài này) vẫn không có câu trả lời. Bởi, thực trạng số doanh nghiệp làm cảnh, để thử thời vận, doanh nghiệp “chân gỗ” /là công cụ hay phương tiện giai đoạn tạm thời… có lẽ nhiều. Ta cũng chưa có số liệu tin cậy về DNNVV theo ngành, một mặt là để người quan tâm (người khởi nghiệp, người chuẩn bị tham gia thị trường) tham khảo; mặt khác là để cho việc định hướng vĩ mô có sắc thái hơn (chẳng hạn cho chính sách tập trung khuyến khích đội ngũ các doanh nghiệp chế tạo và sản xuất sản phẩm phụ trợ).

Mặt khác, công bình mà nói, khó khăn về thống kê, xếp loại và thiết đặt chính sách như vậy khó thực hiện cũng là từ bản thân cách làm và sự vận động của chính doanh nghiệp, do thực tế doanh nghiệp ở Việt Nam làm quá nhiều việc, doanh nghiệp nào cũng ôm đồm kinh doanh tổng hợp, không biết đâu là ngành chính để mà xếp loại.

Về khía cạnh ngành nghề, nhìn vào bản điều lệ và/hoặc chứng nhận đăng ký kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, sẽ không khó lắm để nhận ra sự mông lung, thiếu kiên định hay khẳng định về mục tiêu kinh doanh. Hãy xem ở mục “lãnh vực hoạt động” trong các điều lệ sẽ thấy đa phần doanh nghiệp ghi đầy các ngành nghề mà họ có thể ghi được. Lại còn thêm “có thể tiến hành các hoạt động khác”. Doanh nghiệp nhỏ và vừa, thậm chí là siêu nhỏ, thì sức đâu mà “đa ngành”…

Thiếu khẳng định cho cái cốt lõi, DNNVV dễ bị mất tập trung, nhất là về tài chánh, khó gầy dựng được thế đứng giai đoạn, đặc biệt là trong điều kiện cạnh tranh với nguồn lực hữu hạn. Tất nhiên không ai bắt anh phải ở hoài trong khu vườn nhỏ, không ai cấm anh ước mơ, nhưng anh cần khẳng định “tôi đang canh tác gì ở khu vườn đó”, không nên xác định sớm quá chuyện sẽ xây cao ốc, kinh doanh ‘resort’, siêu thị, hay ‘ra biển lớn’… để rồi thiếu tập trung chuyên sâu.

 

Tài chánh DNNVV: Thực trạng và những gợi ý

Cơ cấu vốn /tài chánh là vấn đề khác. Rất nhiều DNNVV ở ta luôn trong tình trạng “nặng nợ”. Tỷ lệ nợ trên vốn gấp 3~4 lần là khá phổ biến và không hiếm trường hợp cao hơn nhiều. Nhiều doanh nghiệp có thể tạm thời quên độ an toàn lý thuyết, nhưng với một đòn bẫy nợ trên vốn riêng (funded debt ÷ equity) cao hơn hai lần thì họ rất cần nghĩ ngay tới chuyện bất thường. Chuyện bất thường ở đây là gì? Là ở chính cơ sở vốn, ở khả năng nuôi nợ hay đảm đương nợ (debt service và các coverage ratios), là yếu tố chủ quan liên quan đến sự bất cẩn trước yêu cầu thận trọng cần thiết. Những tác động ngoại lai về kinh tế, tiền tệ và thị trường thì thật khó lường. Không ít trường hợp bế tắc vừa qua  là do việc doanh nghiệp tính toán dòng tiền chỉ đơn giản dựa trên kế hoạch kinh doanh lạc quan ngắn hạn và quên đi những khúc khuỷu ‘dội chợ’ có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong thời buổi biến động này.

Cũng không ít trường hợp nay phải chấp nhận bán mình vì đã ‘tranh thủ’ được nguồn vốn rẻ (ví dụ của VDB vào những năm 2005 ~ 2007) để đầu tư ‘quá hớp’ vào nhà xưởng, thiết bị chuyên dụng, và khi các thị trường ăn hàng truyền thống bị khủng hoảng thì doanh nghiệp lập tức lâm vào bế tắc. Bản thân đồng tiền vay trong kinh doanh đã là con dao hai lưỡi, riêng việc vay cao bất thường để đầu tư thì chẳng khác việc ta đặt doanh nghiệp vào thế đánh đổi trên lưỡi thứ hai của con dao ngay khi cầm tiền vay. Nhưng thật oái oăm, nhiều doanh nghiệp lại cứ nghĩ đầu tư là việc làm chính đáng mà xã hội phải ủng hộ, để có thể trách móc (ngân hàng hay nhà nước) khi không vay được tiền để đầu tư.

Có một thực tế (có vẻ không bình thường) là nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam làm ăn hiệu quả, thậm chí rất hiệu quả, mà vẫn không lớn lên được hay không có tiền. Nói khác đi, doanh nghiệp làm ra nhiều tiền nhưng không có nhiều tiền (ý này rất đáng được nghiên cứu). Tại sao? Là do có tình trạng thu hoạch cho chắc. Có nhiều lý do có thể hiểu được (và thông cảm được) việc người ta thích chia đem về nhà hơn là để tại doanh nghiệp. Điều này là bình thường hay không thì chưa biết, nhưng đứng về phía doanh nghiệp ta có thể thấy đây là một điểm khuyết về tích lũy vốn và nuôi lớn doanh nghiệp bằng vốn tự có. Thực tế này có lẽ khác với nhiều nước về quan niệm giàu có. Theo đó sự giàu có của người chủ doanh nghiệp xứ họ thường là nằm ở doanh nghiệp.

Nếu cần bàn thêm vấn đề (hay giải pháp) tài chánh cho DNNVV tại Việt Nam, ta có thể mổ xẻ đôi điều về một số khả năng. Nói khả năng là vì không thể có bài thuốc chung cho tất cả. Khả năng cũng có thể chỉ là cách sử dụng tiền chứ không hẳn là khả năng được tài trợ.

Vậy DNNVV cần làm gì? Cần tập trung cho sở trường và vào lãnh vực cốt lõi có lợi thế chứ không nên dàn trải, hãy tập trung khai thác hiệu quả “niche” (phân khúc ngách) của mình – Cần biết doanh nghiệp mình đang ở giai đoạn phát triển nào: khởi lập, củng cố, trưởng thành hay phát triển lột xác (?) để có kế hoạch tài chánh đi theo – Cần thực tế trong cách làm chiến lược – Cần dựa trên năng lực tài chánh tự có và khả dĩ có, phù hợp với năng lực doanh nghiệp, theo kế hoạch năm và không quá ba năm – Chú trọng nhiều hơn đến kỹ năng quản trị tài chánh, về cơ cấu vốn, về dòng tiền, về quy mô nguồn lưu động. Xin nhấn mạnh ở nguồn lưu động, vì không ít doanh nghiệp ‘lâm nạn’ chỉ đơn giản là do thiếu vốn lưu động và hụt các kiến thức tài chánh cơ bản vừa nêu – Việc cải thiện hình ảnh và uy tín “nhân thân” để có cơ hội được tài trợ là một gợi ý khác.

Việc tập trung vào lãnh vực cốt lõi, xác định vị thế doanh nghiệp và thực tế hơn trong chiến lược sẽ giúp cho doanh nghiệp có cái nhìn và có cách tiếp cận phù hợp với các nguồn tài trợ – Cần đặt ra các bài toán tài chánh và giải chúng. Hãy đặt câu hỏi tại sao ngân hàng không cho tôi vay. Hay cụ thể hơn tự hỏi tại sao Ngân hàng Nhà nước “ra lịnh’ các ngân hàng cho doanh nghiệp dạng như của tôi vay x% mà tôi phải vay tới “x+5”% hoặc không vay được…

Xem thử tôi có thể gõ cửa thị trường vốn (capital market) hay không, gõ ở nơi nào (định chế tài chánh nào), nên cầm vốn loại nào, và nếu bị từ chối thì cần hỏi tại sao người ta lại “chê” tôi? – Trường hợp không thể cậy nhờ thị trường tín dụng và thị trường vốn, doanh nghiệp vẫn có thể tìm vốn từ các đối tác trong và ngoài nước qua hình thức liên doanh liên kết hay dựa trên cơ sở hợp đồng. Vấn đề là “tôi” có thể vượt qua chính mình hay không, có vượt qua được bức tường tâm lý để có thể vui vẻ hợp tác không? – Không đợi đến những khúc quanh, trong quá trình hoạt động bình thường và theo từng giai đoạn phát triển, doanh nghiệp cũng cần xét đến yêu cầu tái cấu trúc, cần xác định tái cấu trúc cái gì và như thế nào.

Đã tái cấu trúc thì, hoặc là sẽ giảm đươc phí, hoặc sẽ tăng hiệu quả. Cả hai đằng đều ra… ‘tài chánh’ – Giải pháp cũng có thể nằm đâu đó trong hoạt động M&A… Tất cả đều cần có kiến thức tài chánh, hiểu biết các thuộc tính liên quan đến các định chế tài chánh và thị trường tài chánh nói chung. Và, nếu cần – có lẽ rất cần – thì nên nhờ hoặc ‘nuôi’ chuyên gia (tư vấn thứ thiệt). Mặt khác, việc doanh nghiệp biết cách dừng lại, chuyển hướng hay thậm chí rút lui là các khả năng khác rất ‘trí tuệ’. Biết dừng lại, chuyển hướng, rút lui ở đây chính là cách “kiếm lời trong điều kiện lỗ” vậy.

Ở phía ngược lại là các nhà đầu tư và tổ chức tài trợ trong thị trường vốn (capital market)… Tuy có một số đặc điểm không thuận lợi về huy động trên thị trường vốn, hay thị trường chứng khoán, quan điểm về hiệu quả đối với DNNVV (SME-firm effect theory) trong hoạt động đầu tư lại cho rằng “các DNNVV thường có kết quả tăng trưởng tốt hơn các doanh nghiệp lớn, do vậy cổ phiếu của chúng cũng dễ cho hiệu quả tốt hơn cổ phiếu các doanh nghiệp lớn. Sở dĩ các nhà phân tích kinh tế tài chánh tin vào điều này vì theo khảo sát các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rộng đường (more room) phát triển hơn các doanh nghiệp lớn”.

Như vậy, vấn đề còn lại là các DNNVV cần có cách “tailor-made” (xin tạm hiểu là sắm bộ) cho mình để có lợi thế, để có cái riêng sao cho dễ lọt vào mắt xanh của các nguồn tài chánh “vô tư’ còn khá dồi dào trong xã hội, đặc biệt là nguồn “private equity” (quỹ đầu tư trực triếp) hay không…

Đây cũng có thể là đất hoạt động còn để mở tại Việt Nam dành cho các tổ chức tài chánh và/hoặc các giải pháp tài chánh có sự bảo trợ của chính phủ. Ví dụ như công cụ P-CBO (primary collateralized bond obligation), là loại trái phiếu chứng khoán hóa được bọc lót bằng công cụ nợ DNNVV và được tăng cường tín nhiệm bởi các tổ chức uy tín, từng được áp dụng thành công tại Hàn Quốc từ năm 1999.

Ngay như các bạn trẻ đang ôm ấp hoài bão tự lập và tinh thần ‘dám nghĩ dám làm’ (entreprising) thì có thể tự tin khởi nghiệp mà không quá lo về vốn nếu có ý tưởng độc đáo, khả thi, và biết chọn cách bắt đầu. Vì, một khi doanh nghiệp của họ đã đâm chồi nẩy lộc thì sẽ không khó tìm những “angel” (angel investors – giới thành đạt giàu có và vẫn còn máu làm ăn) hay các “venture capitalist” đang đói đợi các cơ hội đầu tư.

 

TP Hồ chí Minh 6-2012

 

________________________________________________________________________

(*) Đọc thêm bài “Kinh tế Dùng sức và động cơ tự hành trước yêu cầu phát triển đột phá”, Huy Nam, VietnamNet 15-16-17/2/2005 – TBKTSG 7-4-2005 – Sách “Ẩn số động lực trong phát triển kinh tế, NXB Thanh Niên, 2007.

Xem thêm bài viết