(Tham luận tại Hội thảo về nâng cấp TTGD thành Sở Giao dịch CK TP.HCM – UBCKNN 21-10-2004)
Để đón đầu hội nhập, dù là giai đọan tập dượt trong nước hay chỉ liên hệ với các TTCK trong khu vực, việc xây dựng và phát triển TTCK theo cách làm phổ biến với yêu cầu bắt kịp là hai tiếp cận phù hợp. Ý định xây dựng và nâng cấp Trung Tâm Giao Dịch Chứng Khóan TP HCM thành một ‘Sở Giao Dịch Không Có Sàn’ có lẽ cũng không ngòai chiều hướng đó.
Tuy nhiên, trước khi đi vào các nội dung liên quan đến việc hình thành và phát triển một Sở giao dịch chứng khóan hiện đại với yêu cầu bắt kịp như vậy, theo tôi, chúng ta cần xem lại một số ý về cách làm phổ biến để nhận dạng rõ hơn điều gì có thể giúp cho mục tiêu mà chúng ta đang bàn, và sẽ theo đuổi, đạt được kết quả mong đợi. Là vì, nói phát triển hiện đại mà chưa định được hình hài ban đầu, còn dọ dẫm, chưa chắc bước, va vấp nhiều ở những bước khởi đi… thì sẽ khó có tự tin. Tự tin là yếu tố cần thiết phải hiện hữu ngay trong giai đọan khởi xướng.
Điều được xem là cách làm phổ biến và được nhắc tới dưới đây liên quan đến việc tạo dựng ban đầu, nền nếp thực hành, người đầu tư, các thực thể tham gia,… thể hiện qua công tác triển khai thị trường, từ khâu quản lý Nhà nước đến thực hành giao dịch thứ cấp. (nhưng không đi sâu vào các thông lệ hành xử hay chi tiết giao dịch). Tuy nhiên, đây lại là những vấn đề không thuộc nội dung chính của tham luận này nên chỉ xin nêu khái quát.
Vấn đề lớn nhất lâu nay, theo tôi, là việc chúng ta (cơ quan chuyên trách) đã bỏ lỏng khâu phát hành chứng khóan. Khi đặt thành vấn đề bỏ lỏng khâu quản lý phát hành như vậy, cũng xin được nói ngay là việc này lại sẽ chẳng là vấn đề gì cả nếu như thị trường chứng khóan ở ta được tổ chức ‘từ dưới lên’, theo cách lập định chế giao dịch thứ cấp trước và chưa có ngay cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khóan và TTCK. Việc triển khai thị trường từ trên xuống (phủ từ khâu quản lý Nhà nước xuống) nhưng không có sự quản lý đầu nguồn (chứng khóan) như hiện nay là không đồng bộ. Điều này đã tạo ra những hệ quả khó lý giải và một thực trạng kém thuyết phục. Chẳng hạn, sau khỏang 10 năm chuẩn bị và hơn 4 năm triển khai, khái niệm ‘phát hành đại chúng’ vẫn chưa có ý niệm rõ ràng, là thứ gì ‘xa xí’ hay không cần thiết, còn xa lạ với hầu hết doanh nghiệp.
Việc thiết đặt các tiêu chí xếp lọai công ty cổ phần phục vụ cho ‘yêu cầu quản lý hiện trạng đại chúng’, là mặt khác của vấn đề, cũng đang bị bỏ ngõ. Do vậy, nỗ lực (hay mong đợi) tạo ra một sân chơi bình đẳng và minh bạch cho tất cả, một môi trường thao dượt việc làm ăn theo tập quán hội nhập ngay ‘từ bên trong’ cho cộng đồng doanh nghiệp nước nhà… chậm được xác lập. Từ đó, việc bảo vệ người đầu tư – bất kể họ là trong hay ngòai công ty, trong hay ngòai nước – nhằm lành mạnh hóa họat động giao dịch chứng khóan (ở tầm quốc gia) chưa được quan tâm đúng mực.
Bối cảnh triển khai từ trên xuống, với cách làm ‘tự lực cánh sinh’ như hiện nay, làm cho thị trường chứng khóan ở ta bị chật vật ở khâu thể hiện (performance): TTCK bị nhìn nhận hẹp, chỉ diễn ra quanh quẩn ở ‘khỏanh khắc’ giao dịch thứ cấp, nhưng khâu này lại bị ‘cô lập’ (lệ thuộc việc xét niêm yết) nên khó phát triển. Bối cảnh ‘từ trên xuống’ mặc nhiên đặt định chế đóng vai hạ tầng giao dịch chứng khóan (TT GD Chứng Khóan TPHCM) vào thế tôn ti chấp hành, không thể phát huy yếu tố linh họat trong họat động xét niêm yết như những thị trường được triển khai ‘từ dưới lên’. Xin được liên hệ bối cảnh này với việc ta muốn có nước cho đồng bằng hạ lưu xanh tốt nhưng lại không chủ động được nguồn nước ở khúc sông trên!…
Một nội dung khác liên hệ trực tiếp đến vấn đề phát triển TTCK hiện đại và hội nhập là yêu cầu chuyên nghiệp. Tuy có quá trình khởi động ngắn và qui mô còn rất nhỏ, thị trường chứng khóan Việt Nam lại đã có đến 13 công ty chứng khóan (thời điểm cuối 2004) đang họat động và sẵn sàng phục vụ người đầu tư, chưa kể các quỹ và các định chế trung gian hỗ trợ hay phục vụ khác. Số lượng các công ty chứng khóan như vậy không phải ít, nhiều là khác nếu so với thực trạng đầu tư và niêm yết còn ít ỏi. Nhưng kể từ khi có thị trường, họat động của các thành tố chủ lực có tính tác chiến này chưa khởi sắc. Do tình hình phát triển kém lạc quan, thiếu vắng yêu cầu thúc bách để ứng dụng các kỹ thuật nghiệp vụ chuyên ngành, các công ty chứng khóan vừa ít việc làm vừa thiếu động cơ đầu tư mở rộng. Công bình mà nói nhiều công ty cũng đã tỏ ra năng động, nhưng gần như họ chỉ mới ‘thực hành chức năng’, xoay xở kiếm sống, chứ chưa có dịp khai thác chiều sâu nghiệp vụ và làm dịch vụ chuyên ngành chứng khóan. Do vậy, yếu tố chuyên nghiệp chậm phát triển. Yếu tố này lại không thể chậm hơn khi ta có một sở giao dịch hiện đại và hội nhập.
Tình hình như vậy làm cho khái niệm ‘thị trường sơ cấp’ ở ta còn mơ hồ, chưa được định hình, cho dù đây là khâu quan trọng đóng vai đầu nguồn của tòan cảnh TTCK. Thay vì là một khâu cơm gạo rất đời thường của các công ty chứng khóan, thì ngược lại, ai đề cập tới việc xây dựng khuôn khổ cho thị trường này có thể bị chê là ‘lý thuyết’. Tương tự, các công ty chứng khóan cũng đã phải chịu đói trên ‘cánh đồng OTC’. Không có thị trường OTC, hay thị trường này không có đất sống do chưa được thừa nhận, thử hỏi cổ phần của hằng chục ngàn công ty cổ phần không niêm yết, hay không được niêm yết vì bất cứ lý do gì, sẽ mua bán như thế nào, ở đâu, có gì bất ổn? Hoặc giả, việc giao dịch nếu vẫn diễn ra đương nhiên, thì ta gọi bối cảnh đó là gì, các sản phẩm giao dịch ở đó là gì, có phải là ‘chứng khóan’?…
Thực tế, khi thị trường OTC bị ‘từ chối’ như vậy thì đồng thời có đến hằng trăm ngàn nhà đầu tư bị đặt ra ngòai sân chơi chứng khóan, bị ‘phân biệt’ oan uổng. Nói cách khác, trong khi ta đang ra sức cổ xúy cho kênh huy động vốn cho doanh nghiệp qua TTCK thì, do thị trường chứng khóan ấy bị khoanh lại theo cách khiêm tốn như hiện nay, rất nhiều người dù đã trực tiếp bỏ tiền triệu, bạc tỷ, vào chính kênh vốn đó lại không được xếp vào hàng ngũ các nhà đầu tư. Việc bị ‘liệt’ vào dạng ‘tĩnh’ này còn làm cho họ trở nên thụ động, chỉ biết đơn giản mình là cổ đông (ý này là để phân biệt với nhà đầu tư năng động). Trong lúc ấy, từ năm 1990, Luật Công ty đã mở ra môi trường đầu tư ‘động’ cho họ, với khả năng định đọat linh họat qua sự thuận tiện mua bán, chuyển nhượng cổ phần… Việc này là gì nếu không phải là giao dịch chứng khóan? Và họ là gì nếu không là nhà đầu tư? Xin xác nhận lại điều không nên quên, rằng ngọn cờ của việc tổ chức và huy động vốn tại các công ty cổ phần là TTCK. Theo đó, một lý do quan trọng (hàng đầu?) để nhiều người đầu tư vào dạng công ty này là việc chuyển nhượng cổ phần linh họat, tức khả năng thanh khỏan. Vậy tại sao ta động viên họ mua cổ phần mà lại không tổ chức thị trường cho họ? Có phải đây là điểm chưa được lưu ý trong chủ trương và quá trình phát triển thị trường? Các lọai trái phiếu và người mua trái phiếu cũng có hòan cảnh hạn hẹp tương tự.
Không ‘đưa’ nhà đầu tư đang sở hữu ‘chứng khóan’ (các nguồn) vào TTCK vì bất cứ lý do gì cũng có nghĩa là ta không tiếp cận được một nguồn ‘khách hàng’ có sẵn. Và khi ta đánh giá hay nhìn TTCK Việt Nam theo cách điểm danh công ty niêm yết và đếm số tài khỏan đang giao dịch là không công bình và chưa sát thực. (Vã lại, thực ra khỏang 20.000 tài khỏan được mở tính đến đầu 2005 cũng chỉ là con số ‘thô’ lạc quan, chứ nếu tính người giao dịch thật sự thì còn ít hơn xa. Ví dụ, nhà tôi chỉ 4 người đã có 3 tài khỏan, nhưng giao dịch thì rất ít). Về mặt nhận diện qui mô hiện thực của thị trường và cách làm bài bản của thế giới, tôi có phân tích nhiều ở phần ‘TTCK, Mong đợi và Hy vọng’ trong cuốn “Hội Nhập Bắt Đầu Từ Bên Trong”, do Nhà Xuất Bản Trẻ – Nhóm Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn – Trung Tâm Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương VAPEC xuất bản 9-2004 (xin đọc từ trang 131 và 147).
Trở lại yêu cầu chuyên nghiệp, cũng do không có thị trường OTC và việc giao dịch cổ phiếu niêm yết vừa qua diễn tiến theo cách so khớp bảng điện trực tiếp và đơn giản, ở ta các khái niệm về môi giới, tư vấn đầu tư, chuyên gia đặc trách thị trường (specialist và/hoặc market maker), không được chú trọng hay ít ra là chưa bao giờ đặt thành yêu cầu để trang bị và chuẩn bị. Chừng mực nào đó có thể nói trong thời gian qua các nhà chuyên nghiệp (công ty chứng khóan) do chưa có đất dụng võ, nên ngay công việc cơ bản phục vụ mua bán cho khách hàng là ‘môi giới giao dịch’, thì họ cũng chỉ mới làm thủ tục trung gian thôi chứ không phải ‘môi giới’ đúng nghĩa. Giao dịch trên thị trường hiện nay (tại TTGD) do vậy chỉ hơn nhau ở khả năng nhập vi tính! Điều này là không vui và cần được quan tâm đầy đủ song song với quá trình phát triển thị trường. Bởi vì với bất cứ hình thức thị trường nào thì họ (nhà tư vấn, môi giới, chuyên gia đặc trách thị trường…) cũng sẽ là lực lượng thủ diễn vai trò chủ lực trong vận động và là thành tố quyết định chất lượng thị trường.
Thị trường chứng khóan là định chế không còn mới là điều không cần bàn cãi. Nhưng đây là định chế có sự vận động liên tục, đôi khi rất mạnh, nên việc du nhập và triển khai cần vững tay. Đặc biệt trong giai đọan khởi động, thiết chế này cần được bám theo bài bản, tuân thủ các nguyên tắc căn bản và có tính nền tảng. Dù được cho là lãnh vực nhạy cảm, nhưng về căn bản lọai thị trường này không có gì là ghê gớm, qúa phức tạp hay không thể kiểm sóat cả, với điều kiện phải nắm vững nguyên tắc vận động của cả ngành chứng khóan (securities industries) chứ không đơn giản chỉ có thị trường (thị trường giao dịch – trading market). Bằng cách bám theo căn bản và các bước thực hành phổ biến, ta có thể triển khai các thiết chế thị trường theo cách mô phỏng (có nghiên cứu chọn lọc) từ kinh nghiệm tổ chức của các thị trường chứng khóan đi trước. Xin được nhấn mạnh là kinh nghiệm tổ chức của chính thị trường chứng khóan chứ đừng lấy kinh nghiệm của ngành khác hay tự xây dựng cách riêng để mà áp dụng hay áp đặt lên nó. Tại sao vậy? Bởi vì, người ta có thể dễ dàng cải tiến sau khi đã mô phỏng hòan hảo (làm tốt cái căn bản); nhưng sẽ dễ bị lúng túng, mất thời gian, vuột cơ hội, khó xuôi chèo mát mái, trong điều kiện không đồng bộ và kém tương thích. Trường hợp muốn có ngay ‘cái riêng’ sẽ rối hơn. Việc du nhập một sở giao dịch không sàn cũng dựa trên cơ sở này.
Khái niệm Sở giao dịch ‘không có sàn’ thực ra cũng không còn mới mẻ. Năm 1978, nhờ sự bùng nổ của công nghệ thông tin và yêu cầu cách tân họat động của các sở giao dịch, một sự kiện có tính cột mốc đã diễn ra tại Mỹ: Việc thiết lập và triển khai hệ thống ITS (Intermarket Trading System) cho 7 thị trường chủ lực của nước này, (gồm NYSE, AMEX, BSE, CSE, CHX, PSE, PHLX). Hệ thống này cho phép các chuyên gia đặc trách chứng khóan (specialist) có thể thực hành giao diện tự động với các sở giao dịch khác nhằm thực hiện lệnh cho khách hàng của mình với giá tốt nhất. Nhưng đến năm 1980 thì hiện thực sở giao dịch không sàn đầu tiên mới được xác lập, với cuộc cách mạng tại Cincinnati. Sau gần 25 năm, ngày nay họat động tại các sàn giao dịch hoặc được tổ chức theo mô hình này hoặc được ứng dụng các kỹ thuật bắt kịp tương tự.
Mô hình sở giao dịch không có sàn có rất nhiều lợi thế. Ngòai lợi thế chủ đạo để đón đầu hội nhập qua khả năng kết nối liên thị trường (mà nước ta đang đặt ra và nhắm tới), hệ thống này còn mở ra các khả năng liên thông khác. Tùy theo mức độ tinh xảo của công nghệ và công suất trang bị, nó có thể cung ứng tiện ích đa dạng, thực hiện tính năng đầu mối cho họat động giao dịch, xử lý và truy nguyên thông tin cực nhanh. Nó đồng thời sẽ giúp mở rộng qui mô, cơ hội và năng suất họat động của các công ty chứng khóan thành viên. Trong một thị trường có qui mô lớn và/hoặc khả năng khai thác công suất tối ưu, thì giải pháp sở giao dịch không sàn là cách tiết kiệm nhất. Cụ thể, nó giúp giảm tổn phí liên quan đến các phương tiện vật chất cần trang bị cho một sở giao dịch ‘có sàn’, giảm nhân sự làm việc cho sở giao dịch, giải phóng các thành viên khỏi phải đi lại khi hành sự hoặc phải gắn cố định ‘tư cách làm việc’ tại một sàn giao dịch… Sở giao dịch không sàn còn tạo ra cơ hội giao dịch nhiều lọai sản phẩm chứng khóan khác nhau, hay kết hợp nhiều lọai thị trường tại cùng một địa điểm, trên cùng một phương tiện. Chẳng hạn, sở giao dịch NSX (National Stock Exchange) của Mỹ có thể vừa giao dịch các chứng khóan theo kỹ thuật đấu giá của NYSE vừa giao dịch chứng khóan được yết trên NASDAQ theo kỹ thuật thương lượng… Sở giao dịch Singapore có thể kết hợp giao dịch các sản phẩm hợp đồng của thị trường hàng hóa kỳ hạn, hay các sản phẩm dẫn xuất (derivatives)…
Tuy được gọi là sở giao dịch không sàn (all-electronic stock exchange) nhưng ta cần hiểu rằng sở giao dịch này chỉ thay phương tiện giao dịch sàn vật chất (physical trading floor) bằng phương tiện điện tử thôi. Không có sàn (‘sàn’ theo nghĩa đen bị lọai bỏ) nhưng các tố chất đặc trưng của một sàn giao dịch và các thuộc tính nghiệp vụ hay phương thức (kỹ thuật) giao dịch của từng lọai thị trường vẫn được giữ nguyên. (NYSE và NASDAQ là hai điển hình thường được nhắc đến để chỉ mỗi lọai thị trường giao dịch chứng khóan cơ bản). Qua đó, việc thực hiện đấu giá (auction market) hay cơ chế ‘quote’ giá và thương lượng (negotiated hay inter-dealer market) vẫn được duy trì. Như vậy, yêu cầu về nghiệp vụ cũng như tay nghề của các broker, dealer… vẫn cần thiết, không có gì thay đổi. Nói rõ hơn, một sở giao dịch không sàn chính quy vừa không thay thế vừa không tinh giản biên chế các nhân sự tác nghiệp làm việc bằng cái đầu ở đó. Giao dịch vẫn cần được ‘bôi trơn’, thị trường luôn cần tính liên tục… nên việc điều hòa cung cầu và bình ổn các chênh lệch (số lượng, giá cả) vẫn được các dealer đóng vai chuyên gia đặc trách (specialist) hay nhà tạo lập thị trường (market maker) đảm nhận. Ngòai ta, trên các sở giao dịch ‘không người lái’ ấy sự cạnh tranh mua bán, cuộc đấu trí để có ‘best price’ cho khách hàng thường có tốc độ gay gắt hơn (ví dụ, thống kê giao dịch tháng 7-2004 tại NSX là 27,5 triệu lần và lượng cổ phần trao đổi là 11,2 tỷ). Chút dài dòng là để tránh ngộ nhận, vì lâu nay thị trường ta chưa làm việc này. Vã lại, cũng cần xóa lối suy diễn: Hễ hiện đại thì chỉ có bấm nút!
Một sở giao dịch không sàn không hề lọai bỏ yếu tố trung gian vậy đã rõ. Điều khác nhau chỉ là hình thức hay qui ước làm việc. Việc giao dịch mua bán thay vì theo cách giáp mặt (by sight) nay là giao diện (interface). Tại các thị trường lớn, công việc của các broker và specialist được nhân lên gáp bội dù họ không cần ‘có mặt’ tại vị trí tác nghiệp (trading post) như đòi hỏi của sàn vật chất. Có vẻ như khi ‘cái tay’ bớt việc thì ‘cái đầu’ phải nhạy và căng hơn. Khả năng tác nghiệp bén nhạy và năng suất tăng lên này phần nào lý giải về tính hiệu quả của một sở giao dịch không sàn.
Trước sau vẫn là yêu cầu chuyên nghiệp, định chế TTCK sẽ khó phát triển trong điều kiện khiếm dụng các khâu tác nghiệp chuyên ngành. Việc thiết đặt các khâu ‘mềm’ đồng bộ trong các phân đọan thị trường vì vậy đang và sẽ còn là yêu cầu thời sự ở ta. Đây chính là ý đề dẫn ở phần đầu tham luận này. Có thể nói việc gầy dựng yếu tố ‘hồng chuyên’ cho bối cảnh luôn rất có ý nghĩa, nếu không muốn nói đó là yêu cầu sống còn của một TTCK. Trong môi trường giao dịch kỹ thuật cao và tốc độ nhanh, yêu cầu ấy lại tăng lên chứ không hề giảm đi. Không thể khác và không có cách làm khác, nếu chúng ta muốn phát triển bắt kịp và hội nhập. Đây như cái nền, cái khung sườn cần có để xây lên… vì ở đâu trên thế giới người ta cũng làm vậy.
Do sở giao dịch chứng khóan không sàn có những công năng như đã nêu, chẳng hạn khả năng kết nối chéo (crossing session) và giao dịch liên thông (intermarket trading), việc xây dựng và trang bị hệ thống tại Trung Tâm Giao Dịch Chứng Khóan Hà Nội nếu cần cũng nên được xem lại cho phù hợp với mục tiêu lâu dài và yêu cầu tương thích. Là vì, việc hình thành mô hình sở giao dịch không sàn có thể xóa đi một số các vách ngăn cố hữu về không gian, về ước lệ thị trường, các giới hạn theo khuôn khổ vật chất hay ràng buộc tư cách tham gia…
Chuẩn bị một sở giao dịch chứng khóan không sàn ta cũng không nên quên các yêu cầu về chuẩn hóa. Việc chuẩn hóa ở đây ngòai phương diện kỹ thuật nghiệp vụ, cần xây dựng một hệ thống các quy chuẩn cùng các nguyên tắc hành xử (để phục vụ chuyên nghiệp và, về lâu về dài, làm nền cho hệ thống luật lệ). Công việc này càng chi li càng tốt, có thể theo một quá trình từ từ (kiểu gradual process nhưng chuẩn mực). Bên cạnh đó là hệ thống thuật ngữ chuyên ngành TTCK có khái quát cao, diễn đạt bám sát theo cách hiểu tương đồng của TTCK thế giới. Cũng không thể chỉ chú trọng Việt hóa mà xem nhẹ tiếng Anh. Việc sử dụng tiếng Anh trong TTCK từ lâu đã là yêu cầu bắt buộc, tiếng Anh thuật ngữ chuẩn, chứ không phải theo cách dùng chỉ có trong nước mới hiểu (như ‘equitization’ hay joint-stock company).
Chưa hết. Giả định các khiếm khuyết, kém đồng bộ, yêu cầu chuyên nghiệp… nêu trên có được khắc phục hay thu hẹp nhanh chóng, thì vấn đề công chúng đầu tư và công ty niêm yết sẽ còn. Một đằng liên quan đến qui mô giao dịch, một đằng liên quan đến số lượng và chất kượng hàng hóa giao dịch. Như ta biết, nếu sở giao dịch tự động có khả năng dung nạp hàng hóa đa dạng, qui mô lượt và lượng giao dịch đều lớn, thì nó cũng cần một thị trường đã sẵn sàng tiếp nhận nó. Tàu lớn, hiện đại, mà ít khách hay chạy trong sông hẹp nước cạn thì chắc sẽ khó phát huy tốt công năng. Một sự đột biến về người đầu tư và công ty niêm yết lại khó xảy ra khi có sở giao dịch qui mô hiện đại, vì bối cảnh ở đây không có tính nhân quả. Yếu tố liên hệ đến ý chí con người này (môi trường đầu tư và niêm yêt) thường hình thành từ quá trình thực nghiệm, với một tập quán hưng phấn cần đủ liều… Vấn đề đang cần được khơi dậy phù hợp, có vẻ đang chờ một tiếp cận đúng và cũng cần ‘đủ liều’.
Việc gia tăng lượng giao dịch và hàng hóa niêm yết, tức thu hút hay tạo ra tập quán đầu tư chứng khóan và nhu cầu niêm yết, cần có sự vận động của một tòan cảnh rộng và sâu hơn, ở những khâu cửa ngõ (thị trường sơ cấp, quản lý phát hành, công ty đại chúng, thị trường OTC…) để nuôi sở giao dịch chứ không đơn giản chỉ từ sở giao dịch. Do nhiều việc vượt tầm ngành chứng khóan, không lọai trừ sẽ cần một chương trình quốc gia có ưu tiên. Liên quan đến việc thu hút đầu tư, không thể không nhắc đến việc tổ chức công ty cổ phần trong bối cảnh TTCK. Là nguồn cung hàng cho TTCK, lãnh vực tổ chức và tài chánh lọai công ty này rất cần được chuẩn hóa theo hướng hội nhập. Là vì, cách hiểu dị biệt xung quanh giá trị vốn – tài chánh (mệnh giá, trả cổ tức…) dễ tạo ra sự vận dụng tùy tiện, gây ngộ nhận, tranh chấp; việc theo đuổi một mệnh giá cứng đã đưa đến những cách làm ‘phi chứng khóan’, thậm chí là phạm luật!
Nỗ lực hình thành một ‘xa lộ’ chứng khóan với sở giao dịch không sàn có lẽ là chọn lựa không thể khác. Tuy vậy, ngòai các yếu tố bối cảnh và điều kiện ‘thiên thời’, ngay giai đọan khởi động việc chọn lựa công nghệ cũng cần được cân nhắc.
Ý kiến đề nghị:
Tiếp theo trình bày trên đây tôi xin đề nghị một số ý cụ thể sau (Các ý kiến trong bài viết này đã được tiếp nhận và sử dụng trong Luật CK):
- Chuyển việc xét niêm yết về Trung tâm Giao dịch Chứng khóan đồng thời với một số điều chỉnh hay cải tiến có tính hóa giải cho khâu này. Điều này vừa nhằm tăng cường vai trò và năng lực của TTGDCK, vừa giảm nhẹ ‘căng thẳng’ về đăng ký niêm yết như lâu nay khi việc này được thực hiện tại UBCKNN.
- Gom đầu mối quản lý các họat động chứng khóan, gồm phát hành cổ phiếu, trái phiếu,… về cho Uy Ban Chứng Khóan Nhà nước. Xóa bỏ tình trạng đã có UBCKNN nhưng họat động phát hành chứng khóan bị phân tán, nhằm xác định vai trò thuyết phục của UBCKNN, để lập lại kỷ cương huy động vốn công chúng, hóa giải thực trạng ‘bị cô lập’ của TTCK nói chung.
- Đặt ra các ngưỡng tiêu chí xác định ‘công ty cổ phần đại chúng’, các công ty này phải đăng ký bắt buộc và chịu sự giám quản của UBCKNN. Cạnh đó là việc thiết đặt một cơ chế giao dịch ‘mềm hơn’ để có thể khởi động sớm thị trường OTC. Tất cả là để giúp cho việc ‘quản lý hiện trạng’ tốt hơn, bảo vệ người đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư tài chánh… Là giải pháp căn cơ tăng ‘qui mô, nguồn hàng và khách hàng’ cho sở giao dịch chứng khóan mai hậu…
(Tạp chí Chứng Khoán Việt Nam đăng lại, các số 1+2 Tháng 1+2/2005)