Đầu tháng 6-2009, tin phá sản của Gereral Motors (GM), công ty sản xuất xe hơi hàng đầu ở Mỹ, đã gây không ít băn khoăn cho người tiêu dùng và dư luận đồn đại trong nước. Người ta kháo nhau quanh các ý lớn như: liệu sẽ còn ai dám mua xe GM, ai đã mua rồi thì có sao, có chăng tới đây các dòng xe Captiva, Vivant hay Spark sẽ bị ế và mất giá, GM vang bóng một thời có phải đang cáo chung? …
Lo lắng của khách mua xe, băn khoăn của giới tiêu dùng và người quan tâm như vậy nói chung là bình thường, rất cần được giải tỏa thích đáng. Thế nhưng thông tin mà họ nhận được thì không phải lúc nào cũng đáp ứng. Và, tùy theo nguồn tin, độ chính xác có thể chỉ là mức độ.
Thật ra, không có gì phải lo ngại đối với các dòng xe GM đã và đang được bán trên thị trường Việt Nam. Và dù biến cố thời sự GM có được nêu ở bài viết này, vấn đề đặt ra ở đây, tuy vậy, lại không phải để giải tỏa hay giải đáp thắc mắc cho câu chuyện (hay sự cố) của GM. Vấn đề là thông tin và yêu cầu thông tin đầy đủ, chính xác. Người viết chỉ muốn mượn trường hợp của GM tại thời điểm để nói rằng, với bối cảnh như dầu sôi lửa bỏng trong vài năm trở lại đây, với các vấn đề thuộc lãnh vực chuyên sâu phức tạp đang diễn ra nhanh và có tầm ảnh hưởng rộng, thì yêu cầu thông tin kịp thời chính xác không thể chỉ có dựa vào tin thông tấn (được pha trộn với đủ thứ ‘gia vị’ của loại ‘ngôn ngữ cảm tính’). Đồng thời, việc đưa tin thuần túy sẽ không đủ phục vụ cho yêu cầu thẩm định.
Không đưa tin thuần túy, nghĩa là thông tin sẽ hơn nhau ở chỗ nội dung có lý giải đáp ứng. Nhưng lý giải khác với bình phẩm. Lý giải (đúng) sẽ cho thêm chất tin hay hàm lượng tin tốt hơn để củng cố thông tin. Còn bình phẩm thì như gia vị. Gia vị tuy cũng cần nhưng liều lượng sẽ là vấn đề. Với trường hợp GM, nếu gia vị đậm quá, là sập tiệm hay cáo chung thì không chính xác. Điều này có thể gây hoang mang hay bất an cho người tiêu dùng và rất dễ là thiệt hại cho doanh nghiệp. Bởi thực tế câu chuyện GM chỉ là một cuộc “đại tu” theo hành lang tái cấu trúc (theo luật) của Mỹ. Thông tin kinh tế không thể như tường thuật đá banh, không thể để tâm lý hưng phấn hay sự bi quan chen vào quá đáng, để ngôn ngữ tính cảm có đất sống, kiểu như “đè bẹp”, “thủng lưới”, “tan tành”…
Yêu cầu đáp ứng sẽ cần là tiêu chí. Với yêu cầu đáp ứng, có chăng người nhận tin đã và đang thầm lặng chấm điểm người đưa tin (courier) nói chung? Ta hãy xem vài nội dung khác để nhận rõ hơn yêu cầu này.
Cuối tháng 5-2009, khi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra chỉ thị về một số biện pháp đảm bảo an toàn hệ thống với nội dung quản lý chặt chẽ các điều kiện cho vay bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng, thì có thông tin báo chí đã viết rằng “Không được cho vay dưới chuẩn”. Vấn đề “nợ dưới chuẩn” (sub-prime loans) được xem là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chánh Mỹ từ năm 2007, chính xác hơn là cuộc khủng hoảng nợ để đương dưới chuẩn (subprime mortgages crisis), dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008. Thấy người ta ‘lên án’ nợ dưới chuẩn, nhiều người ở ta có suy nghĩ nợ dưới chuẩn hay việc cho vay dưới chuẩn là hoạt động ngoài luồng, bất chính. Thậm chí, hễ nói nợ dưới chuẩn là người ta liên tưởng ngay đến điều không đàng hoàng. Hiểu như vậy là phiến diện, là hiểu sai. Bởi, có lẽ ít ai biết ‘vấn đề nợ dưới chuẩn’ trong thực tế còn bao hàm cả vấn đề của ‘nợ chuẩn’, là khi người không đủ chuẩn dùng bùa phép để vay nợ chuẩn. Hoặc gọi là nợ dưới chuẩn, nhưng vấn đề là tình trạng vay và cho vay cẩu thả, chứ không phải ở ý nghĩa “dưới chuẩn”.
Vậy thì vấn đề không phải là nợ dưới chuẩn hay chuẩn mà là ở con người, là lòng tham, sự liều lĩnh và cơ chế giám sát lỏng lẻo. Thật ra, nợ dưới chuẩn chỉ là cách gọi để phân biệt với loại nợ chuẩn (standard hay prime loan) dựa trên thang điểm tín nhiệm. Điều này mang tính kỹ thuật, là sự ‘trả giá’ (hay làm giá) trong thị trường vốn, chứ bản thân nơ dưới chuẩn không có gì trái khuấy. Hoạt động vay và cho vay dưới chuẩn là bình thường, cần thiết, và nay vẫn tồn tại… Ở ta mà gọi nợ dưới chuẩn là không ý nghĩa, hoặc có thể gây ngộ nhận. Đơn giản vì ta chưa có tiêu chí phân loại thế nào là chuẩn, không có việc chấm điểm tín nhiệm như cách làm của Mỹ và các nước đã phát triển khác. Vậy, cách thông tin ‘không được cho vay dưới chuẩn’ và gắn việc này với bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng, có thể tạo ra cảm giác ngờ ngợ, rằng các lãnh vực này là ‘dưới chuẩn’ (theo nghĩa tiêu cực). Yêu cầu lý giải đúng để có thông tin đáp ứng như nói ở đoạn này có thể còn khoảng cách…
Liên quan đến nợ dưới chuẩn và thị trường tài chính Mỹ, có thể nêu thêm một góc nhìn lệch khác. Kể từ những ngày đầu nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính 2008, báo chí nước ngoài đã gọi các tài sản bị mất giá nhanh là ‘tài sản độc’ (toxic assets). Gọi ‘tài sản độc’ là do không ai dám đụng tới, không ai mua vì rât dễ bị ‘cháy túi’. ‘Độc’ thật, nhưng người ta chỉ giới hạn ngữ nghĩa này ở tài sản hay giá trị nào đó thôi. ‘Tài sản độc’ được khoanh lại trong nháy nháy như khoanh một ‘lô sữa nhiễm mélamine’ nào đó thôi. (Thực ra đây chỉ như sự ví von, chỉ dừng lại ở tài sản bị mất giá trị nhanh). Thế nhưng khi du nhập vào Việt Nam, cách hiểu và dùng đôi khi lại vượt xa nghĩa gốc. ‘Tài sản độc’ đã bị đồng hóa thành ‘hàng độc’, đến lượt “hàng” bị khái quát thành sản phẩm, công cụ hay lãnh vực cụ thể là trong ngành tài chánh chứng khoán. Do đó, đã có không ít ‘cảnh báo’ các sản phẩm hay công cụ phái sinh (derivatives) là độc. Thật đáng tiếc với sự qui kết này. Vì như vậy khác nào ta nói hễ cứ ‘sữa’ là độc! Thông tin mà lệch lạc thì tác hại kinh tế xã hội sẽ khôn lường…
Cần biết, các tài sản được cho là ‘độc’ trong đợt khủng hoảng 2007~2008 (xin nhấn mạnh chỉ được xem là độc trong đợt khủng hoảng này) chủ yếu là MBS (mortgage-backed securities), ARM (adjustable rate mortgage), CDO (collateralized debt obligation), là dòng sản phẩm chứng khoán hóa (securitization) thuộc họ trái phiếu. Nhưng nhiều thông tin đã gọi đó là các sản phẩm phái sinh truyền thống, nên có thể nói, trong quá trình đưa tin của báo chí đã có sự lẫn lộn giữa các trái phiếu dạng securitization với derivative. Chỉ có CDS (credit default swaps) là thuộc dòng phái sinh, nhưng công cụ này (CDS) lại thiên về bảo hiểm, cho dù nhiều tổ chức cũng đồng thời sử dụng nó như một sản phẩm đầu cơ.
Mặt khác, từ cách hiểu độc là nguy hiểm hay độc hại, cùng với cách tổng quát hóa thiếu căn cứ, đã có nhiều sự phê phán, chỉ trích, qui kết, cảnh báo rút kinh nghiệm, hay nhẹ hơn là bị nhiễm tâm lý dị ứng với các sản phẩm tài chánh nói chung, và công cụ phái sinh nói riêng. Điều này có thể tạo ra những e ngại không đáng có, cản trở việc triển khai các toan tính tốt, mà việc trì chậm có thể là sự thiệt thòi và bất lợi.
Việc trang bị tốt, hiểu biết đến nơi đến chốn, khả năng tiếp thu và tinh thần cầu thị do đó sẽ luôn là điều cần thiết. Chúng ta không có tham vọng chế tạo bom nguyên tử, nhưng không vì thế mà ta không nghiên cứu sâu lãnh vực này để ứng dụng vào các mục đích kinh tế dân sinh. Cũng vậy, cho dù một số công cụ tài chánh thời gian qua có gây ‘chết người’ thì cuộc chơi rồi đây sẽ lại vẫn tiếp tục với những bàn cờ và ván bài cũ thôi. Ta khó lòng dị ứng để mà đứng ngoài lâu nữa. Việc chọn lọc để áp dụng, nắm vững để ứng dụng, thành thạo trong sử dụng các công cụ chuyên nghiệp chuyên ngành nói chung, và tài chánh nói riêng, là điều không thể chậm hơn.
Đến đây, có thể nói yêu cầu hiểu biết đầy đủ rất cần được đặt ra với cánh nhà báo, mục đích là để có thông tin đáp ứng với liều lượng lý giải đúng đắn, thích đáng, khách quan, chứ không chủ quan cảm tính. Điều này có tác dụng giúp giảm bớt tình trạng nhiễu lệch rất bất lợi cho việc làm quyết định của nhiều giới trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế nước nhà. Nguồn lực chuyển tải thông tin do vậy không thể thiếu yếu tố chuyên gia. Thế nhưng, báo chí ở ta, đặc biệt với các báo chuyên ngành, đây vẫn còn là món xa xỉ. Yếu tố chuyên gia thường chỉ mới dừng lại ở mức độ …trang trí.
Trong đá banh, có thể có loại thông tin hấp dẫn với cách tường thuật đội A “đè bẹp” đội B… Người trực tiếp tường thuật có thể nói B bị “thủng lưới” và liền sau đó lại …”ồ không” một cách vui vẻ. Cách diễn đạt gợi cảm để kích hưng phấn như vậy là cách mượn ngôn ngữ tình cảm trong thông tin. Ngôn ngữ tình cảm dùng trong thể thao hoặc giải trí thì không sao, nhưng với các lãnh vực chuyên sâu chuyên ngành khác thì cần thận trọng.
This content can be found on the following page:
http://www.investorwords.com/8236/toxic_assets.html