Ngày 1-7-2010 là thời hạn chót cho việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005. Vậy, nếu tính từ thời điểm của bài viết này (7-2008) thì, với 1720 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đang hoạt động, mỗi ngày phải chuyển đổi 4 doanh nghiệp mới kịp. Ai dám nói vậy là không lo. Nhất là tiến trình chuyển đổi được mong đợi thiên về cải cách DNNN theo hướng cổ phần hóa chứ không đơn giản chỉ là “thay vỏ”.
Thật ra, không đợi đến thời điểm này, ngay trong thời gian soạn thảo Luật Doanh nghiệp 2005 (LDN) mối lo này đã không ít lần được đặt ra. Trong một phân tích đóng góp cho quá trình hoàn chỉnh luật, tôi đã đưa ra tình huống kém lý giải tương tự và ảnh hưởng của nó đến sự nghiêm minh cuả luật (bài đăng trên Vibonline và TBKTSG, 25-8-2005). Ở đây, do vấn đề ‘chuyển đổi’ ta đang bàn có mức độ rộng hơn chủ trương cổ phần hoá nên việc phân tích không thể chỉ gói gọn trong nội dung cổ phần hoá. Vấn đề cũng không chỉ nằm ở mặt luật mà còn là môi trường kinh doanh hội nhập, tính hiệu quả của hơn một nửa nguồn lực vốn kinh doanh (capital resource) cuả quốc gia đang nằm trong các DNNN… Thế nên, nhiều người còn lo xa hơn: Liêu có xảy ra việc xử lý vội vàng ở đoạn cuối của lộ trình? Liệu việc chuyển đổi DNNN có sẽ đơn giản chỉ là việc thay vào cái bình mới “TNHH một thành viên”? Liệu một mảng nhân sự và nguồn lực không nhỏ (với chi phí không nhỏ) của các bộ ngành (trong tổng thể nhiệm vụ hành chánh quốc gia) đã được dùng để quản lý hay chuyên quản DNNN sẽ còn tiếp tục duy trì đến bao giờ?…
Đi sâu vào vấn đề chuyển đổi (là kỹ thuật chuyển đổi chứ không phải chỉ là cổ phần hoá), ngoại trừ là ý muốn, cách hiểu và làm cứng như đang áp dụng có thể tiếp tục là trở ngại. Theo cách hiện nay, để có thể nhập được vào LDN, DNNN chỉ có hai hướng, là chuyển thành công ty CP hay TNHH một thành viên. Hãy xem có nhất thiết như vậy, và có hay không sự trục trặc là do từ khái niệm đơn giản đến cách hiểu bó hẹp?
Lâu nay có thể ta đã hiểu và đồng hoá DNNN với khái niệm công ty nhà nước. Thật ra thì cách đánh đồng như vậy chưa thật đúng, ít ra là với cách tổ chức và điều hành DNNN như ở ta trước đây. Tại sao vậy? Vì theo thông lệ, đã là công ty thì doanh nghiệp sẽ hoạt động theo luật công ty hay luật doanh nghiệp, là luật điều chỉnh bốn dạng doanh nghiệp cơ bản: trách nhiệm hữu hạn (TNHH), cổ phần (CP), hợp danh (HD) và đơn danh (DN tư nhân – DNTN). Cũng vậy, dù ta có gọi là công ty cổ phần nhà nước thì đó cũng chỉ là công ty CP có cổ đông nhà nước. Vì thế, khi nghe nước ngoài họ gọi ‘state-owned company’ thì ta nên hiểu đây là công ty TNHH hay CP có nhà nước góp vốn, hoặc nếu nhà nước sở hữu 100% thì cũng đã được tổ chức và hoạt động theo luật công ty chung. Kỹ hơn, nhiều nước còn không cho doanh nghiệp một chủ thuộc chính phủ được ‘trách nhiệm hữu hạn’ (khái niệm chính phủ và nhà nước ở ta lại chưa rõ). Điều này là để tăng trách nhiệm hành xử của bộ máy công quyền và bảo vệ quyền uy nhà nước trước bối cảnh cạnh tranh trong làm ăn. Vậy thì cách họ làm thế nào?
Ở các nước, luật về DNNN (nếu có) nói chung chỉ quy định về sở hữu nhà nước, tức có tính nội bộ của khu vực DNNN. Muốn hoạt động, DNNN phải tổ chức và chơi bình đẳng theo luật doanh nghiệp, mà thường là luật công ty. Ở New Zealand, do luật công ty buộc loại TNHH có ít nhất hai thành viên, nên DNNN muốn hoạt động theo pháp lý TNHH phải cần đến hai bộ trưởng đứng tên (cần lưu là ý đứng tên như chủ thể (chức danh bộ trưởng) chứ không phải chủ quản.
Điều có tính nguyên tắc là hễ đã kinh doanh thì DNNN cũng bị buộc phải đi cùng xuồng, chơi cùng sân như các chủ thể sở hữu khác. Trường hợp đặc biệt, tùy theo nhiêm vụ kinh tế – chính trị – xã hội, nhà nước sẽ dọn riêng các tổ chức có tính công cụ, có thể là loại sự nghiệp có thu (dạng statutory body) hay thực thể kinh tế công (economic entity), nhưng rất hạn chế. Ở Phần Lan, mỗi tổ chức kinh tế nhà nước như vậy được hình thành bằng một luật riêng. Ngoài đặc điểm qui mô và sự chọn lọc, nói chung lượng DNNN của họ rất ít, và việc lập thêm DNNN hay doanh nghiệp có vốn sở hữu nhà nước trên 50% đều phải được Quốc hội thông qua. Theo nghiên cứu của CIEM (Bộ KHĐT-12/2004) tại bốn nước Hàn Quốc, New Zealand, Phần Lan, Thụy Điển, số DNNN tại mỗi nước này chỉ là vài chục, hiện diện chừng mực trong số ít ngành đặc biệt hay lĩnh vực tiên phong. Vậy, việc nhà nước dọn sân riêng cho DNNN cũng là chuyện bình thường, nhưng đấy chỉ là loại ngành nghề chủ lực hay đặc biệt, ví dụ lãnh vực casino ở Phần Lan.
Điều không bình thường là tình trạng chơi theo luật riêng trên sân chung. Đó là khi DNNN vừa có luật riêng vừa hiện diện đại trà về số lượng, phủ đều các ngành nghề hoạt động từ trên cao xuống dưới thấp, và đây như cái đuôi quán tính của thời kinh tế bao cấp. Điều này mặc nhiên làm xấu môi trường kinh doanh vì sẽ khó tránh các hành xử phân biệt và kém minh bạch. Việt Nam ta có lẽ cũng đã thấy điều này sớm và muốn giải quyết ngay từ khi có LDN 1999 với loại công ty TNHH một thành viên. Nhưng thực tế thực hiện còn lắm va vấp nên bối cảnh không có nhiều cải thiện.
Bên cạnh đó cách gọi loại hình doanh nghiệp một chủ là doanh nghiệp tư nhân, với quy định chủ thể sở hữu phải là người bằng xương bằng thịt, cũng góp phần gò bó hiệu lực triển khai. Nếu ta gọi thẳng ra đó là doanh nghiệp một chủ sở hữu (sole proprietorship) với phạm vi điều chỉnh rộng hơn thì sự thể có thể khác. Khái quát hơn, nếu gọi đây là doanh nghiệp đơn danh, để phân biệt với loại hợp danh (partnership), thì chủ doanh nghiệp có thể là cá nhân, pháp nhân hay tổ chức, và DNTN chỉ là một đối tượng. Như vậy, không loại trừ DN có vốn 100% nhà nước (hoặc trong hệ thống nhà nước nói chung) cũng sẽ thuộc loại này, hay ít ra sẽ bị chi phối bởi các đặc điểm của loại này.
Việc đổi cách hiểu và gọi như vừa nói, ngoài việc mở rộng đối tượng áp dụng, còn có khả năng hoá giải một số tình tiết luật chưa hợp lý. Chẳng hạn, tại sao trong cùng một môi trường kinh doanh như hiện nay mà doanh nghiệp một chủ tư nhân (DNTN) thì chịu trách nhiệm vô hạn còn doanh nghiệp một chủ nhà nước (DNNN) lại chỉ là hữu hạn? Tại sao công ty (hay tổ chức) mở doanh nghiệp con 100% vốn của mình thì chỉ là trách nhiệm hữu hạn mà không (bị buộc) là DN đơn danh hay phải chịu trách nhiệm vô hạn? Trong một số trường hợp đặc biệt (xin lưu ý đặc biệt), tại sao không qui định chủ thể là tổ chức khi tham gia lập doanh nghiệp thì cần phải là thành viên hợp danh hay cần hành xử với tư cách trách nhiệm vô hạn? Xin nêu lại một ý kiến khá đặc biệt của một thầy dạy luật (đã phát biểu tại cuộc điều trần về Luật Doanh Nghiệp do VP Quốc Hội tổ chức ngày 29-7-2005 tại KS Legend TPHCM): “Loại công ty TNHH một thành viên sẽ được lập ra các công ty TNHH một thành viên con cháu tiếp nối đến đâu?”
Trở lại vấn đề mối lo lỡ hẹn… Nếu DNNN được hiểu như loại đơn danh, hay nói chung nếu có sự ràng buộc chủ thể nhà nước khi làm chủ doanh nghiệp (DNNN) cũng phải bị chi phối bởi đặc điểm về trách nhiệm (vô hạn) như thể nhân làm chủ doanh nghiệp riêng (DNTN) thì vấn đề có thể sẽ hoá giải một phần. Theo đó, nếu hết thời hạn chuyển đổi theo luật mà DNNN nào còn thì sẽ bị buộc tồn tại theo đặc điểm đơn danh, có hay không có pháp nhân, trách nhiệm vô hạn… Với yêu cầu như vậy, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước cho dù được mặc áo ‘công ty một thành viên’ cũng nên được nghiên cứu lại về đặc điểm trách nhiệm hữu hạn (theo hướng chuyển thành ‘vô hạn’). Đồng thời là việc có đuợc lập công ty con nữa hay không…
Riêng ý kiến gần đây về việc cổ phần hoá DNNN mà chưa tiến hành IPO, theo tôi, là một hướng đi tích cực và có tính hoá giải cao. Phương thức này thực ra có thể gọi khác đi là việc chuyển đổi DNNN thành công ty (corporatization) thì đúng hơn cách gọi cổ phần hóa như lâu nay (theo các nghị định về cổ phần hoá, mà nay là NĐ 109). Việc chuyển đổi DNNN thành công ty (công ty hóa) được đề cập ở đây không nên chỉ đơn giản là cách chuyển đại trà DNNN thành công ty TNHH một thành viên vào ngày tới hạn luật định, mà cần nghiên cứu chuyển từng bước DNNN sang công ty cổ phần ở dạng “tiền đại chúng”, nghĩa là chưa cần phát hành đại chúng. Đây là cách làm bài bản, tính khả thi cao, hiệu quả thuyết phục. Tuy nhiên, do quy trình có thể khác, kỹ thuật sẽ khác, khác cả chủ trương, luật lệ, và tư duy, nên việc dọn đường và chuẩn bị các bước thích hợp sẽ quyết định độ thành công. Việc này không khó nhưng sẽ cần có sự quan tâm nghiên cứu và triển khai thực hiện…