Tiêu thụ là cái “cớ” của hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ mà èo uột thì sản xuất kinh doanh không cách gì lớn nổi. Theo ý nghĩa kinh tế, khi người ta khuyến khích tiết kiệm thì đồng thời cũng không phải đã có cái nhìn xấu gì với tiêu thụ. Tiết kiệm để dồn nỗ lực cho phát triển sản xuất mà không tiêu thụ được thì nguy. Tuy nhiên, trong thực tế, ở những góc nhìn khác nhau, vấn đề đôi khi vẫn còn khá nhạy cảm.
Ở đây chúng ta không bàn đến những thái cực hoặc những hành vi đụng chạm đến đạo đức mà sự xét đoán thường cũng chỉ dựa trên những khái niệm tương đối – nơi có một biên cương rất mong manh. Còn lại, trong một tòan cảnh kinh tế bao trùm của vấn đề, có thể nói tiêu thụ mang tính tích cực và cần thiết. Đây là yếu tố ắt có rất cơ bản của hoạt động kinh tế.
Do đặc điểm về xã hội, trước đây ở ta một thời tiêu thụ từng bị đặt ra ngoài nhu cầu. Thậm chí được liệt vào danh mục sinh hoạt bị lên án. Đó là thời kỳ kinh tế tập trung sản xuất và phân phối. Tuy là vậy, nhưng ngay sau khi được phân phối (trong hoạch định cứng rắn) thị trường tiêu thụ theo nhu cầu lập tức xuất hiện và điều tiết một cách không chính thức.
Thật ra thời kỳ sản xuất và phân phối không chỉ có trong xã hội xã hội chủ nghĩa hoặc tại các nước có nền kinh tế hoạch định cứng rắn. Thời gian trước những năm sáu mươi, khi khái niệm tiếp thị (marketing) còn mờ nhạt, nhiều nền kinh tế còn hoạt động theo mô thức cổ điển với quá trình sản xuất và bán hàng khá đơn điệu. Hoạt động kinh doanh chủ yếu theo cách đi bán những thứ mình có; hoặc chỉ là để đáp lại các nhu cầu cơ bản, nhu cầu thường xuyên hoặc nhu cầu gia tăng… Đặc điểm của thời kỳ này là người tiêu dùng dễ tánh và họ không có tiếng nói mạnh.
Khi nhu cầu càng được thỏa mãn, nhất là khi con người không còn loay hoay với những thứ cơ bản, động thái tiêu thụ đã thoát khỏi ý nghĩa đáp ứng các đòi hỏi cần thiết. Người ta đi tìm cái tốt hơn, sự mỹ cảm, tiện nghi, sảng khoái, và cao hơn, ví dụ cảm nhận thành đạt… Cuộc sống tại các cộng đồng phát triển được thăng hoa đồng thời với khả năng chủ động trong chi dùng. Quyền phát bóng đã thuộc về người đi mua và họ khôn ngoan hơn. Câu hỏi “không có nó có chết không?” đã lặng lẽ mất đi. Lo sợ “hưởng thụ” hoặc “lười biếng” cũng nhẹ bớt. Bởi vì có vẻ như người ta ngày càng phải làm việc nhiều hơn, kể cả người đi học. Ý thức tiêu dùng hay thụ hưởng đan xen trong quá trình họ nỗ lực làm ra của cải. Các họat động làm việc, học tập, đầu tư, vui hưởng, cần được quân bình hợp lý song hành, không tách riêng ra được. Khái niệm nghỉ ngơi hoặc hưởng nhàn nay có khác xưa, ngày nay nhiều người làm việc đến cuối đời…
Nếu có ai đó lo lắng xã hội sẽ chuyển qua tiêu thụ (ý nghĩa tiêu cực) thì những người sản xuất kinh doanh sẽ còn lo hơn bội bội phần để tìm nguồn tiêu thụ, để mở rộng hoặc duy trì ‘thị phần’ (market share). Bởi, thực tế họat động tiêu thụ (phía cầu) luôn luôn có sự duyệt lại (chọn lựa), trong khi khả năng tiêu thụ được nhiều sản phẩm (phía cung) ngày càng khó hơn (bị cạnh tranh). Điều này thực sự xảy ra từ những năm sáu mươi trở đi khi lực lượng sản xuất bùng nổ. Ở châu Á thì chậm hơn một chút nhưng rất mạnh mẽ, với sự góp mặt của những tài năng mới như: Nhật Bản, tiếp theo là Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, và sau đó có An Độ, các nước Asean và Trung Quốc. Ý nghĩa tiếp thị xuất hiện mạnh mẽ nhất trong thời kỳ này. Đường chạy của các nhà sản xuất kinh doanh ngày càng chật hẹp hơn do con người được thừa hưởng gần như không giới hạn các ân huệ từ thông tin và khoa học kỹ thuật mang lại.
Yếu tố thông tin và sự giao thương rộng mở theo hướng hội nhập, là những làn sóng phát triển liên tục trong mấy thập kỷ qua, đã khai thông mạnh mẽ về qui mô và tập quán thị trường thế giới. Đến mức, khái niệm thị trường ngách (niche) được phát triển mạnh trong những năm ‘80, nay hầu như đã “kín ngách”. Khái niệm về thị trường đã và sẽ còn thay đổi. Bây giờ ra doanh nghiệp để tìm và chia lại thị phần thì khá cam go. Những chuyển biến và hoạt động kinh tế gần đây cho thấy có thể đã xuất hiện một khái niệm mới về sản xuất kinh doanh và khai thác thị trường, theo kiểu “khai hoang, lấp biển, cơi thêm, hoặc bám theo”… Công nghiệp sản xuất hàng điện tử, vi xử lý và công nghệ phần mềm hay các công nghệ phụ trợ là ví dụ. Bill Gate lên ngôi là nhờ ‘ông vua’ này tự khai khẩn để lập ‘vương quốc’ riêng… Rất nhiều phần mềm tiện ích bám theo đó, vừa không chia thị phần với Microsoft mà cũng chẳng phải là dạng “niche”. Khái niệm mới này tưởng giống như khái niệm bổ sung và thay thế trong kinh tế cổ điển, nhưng không phải. Tuy nhiên, cùng với hoạt động sản xuất các sản phẩm bổ sung và thay thế, khái niệm đó một lần nữa làm bùng lên lực lượng sản xuất. Sự tiếp cận như vậy giúp tạo ra sản phẩm mới, tạo thêm tiện ích, gia tăng giá trị sử dụng, tạo nhu cầu mới… Cho dù công nghệ thông tin và điện tử cho ta thấy điều này rõ nhất, thế nhưng không phải là điều hiếm thấy ở những lĩnh vực khác. Có thể nói, hoạt động marketing chứ không đơn thuần là sản xuất, đã chắp cánh cho tiếp cận thuyết phục này. Chính marketing đã làm cho các không gian nhà của chúng ta (người tiêu dùng) ngày một chật chội hơn. Chưa kể ‘internet’ và làn sóng tòan cầu…
Sẽ khó lường hết hậu qủa tiêu cực nếu bỗng nhiên mặt bằng tiêu thụ chung bị cắt giảm xuống chừng 10% chứ chưa nói nhiều hơn, và khi điều này xảy ra (thật sự là đã xảy ra tại nhiều nước) nỗ lực tiêu tốn để có sự hồi phục là rất lớn. Ngoài ra, một khi mức tiêu thụ của một loại thị trường nào đó kém, hoặc chựng lại thôi, có thể sẽ làm khê đọng nhiều ngành hoạt động liên quan khác. Ví dụ kỹ nghệ xe hơi sẽ ảnh hưởng (hay tác động) đến việc phát triển cầu đường; địa ốc liên quan đến hạ tầng và tài chánh, v.v…
Thực ra, các nền kinh tế rất sợ tình trạng khắc kỷ tiêu thụ hoặc dè xẻn qúa đáng… Nhật Bản là nước có kinh nghiệm này trước tiên từ sau những năm bảy mươi. Khi bài thuốc về cần kiệm được người dân Nhật ‘sử dụng quá liều’ và kéo dài hơn toa kê của bác sĩ (Sự hưởng ứng quá mức). Nền kinh tế đã bị “no hơi” và họ đã phải hóa giải bằng cách chuyển dần sản xuất ra nước ngoài. Tình hình sau đó còn căng thẳng hơn, khi suy thoái tác động thêm tâm lý bất ổn làm cho người dân dè xẻn hơn nữa. Đến mức vào cuối năm 1998, chính phủ Nhật đã phải áp dụng một giải pháp tình thế thật hiếm thấy, bằng cách phát ra các “phiếu mua hàng miễn phí”…
Một trường hợp tương tự là Hàn Quốc. Đầu năm 1998, do sự lây lan của suy thoái khu vực, kinh tế Hàn Quốc đã lâm vào tình trạng khó khăn. Trong nỗ lực vận động sự hợp tác của dân chúng để cùng tìm cách giữ ổn định, vượt qua sóng gió, có cả lời hiệu triệu ‘thắt lưng buộc bụng’. Với tinh thần kỷ luật và yêu nước cao, hiệu lực tiết kiệm được dân chúng hưởng ứng mạnh mẽ. Nhưng kết quả lại làm cho tình hình thêm nghiêm trọng. Lý do là vì khi xuất khẩu của Hàn Quốc giảm mạnh, bởi sự co cụm của thị trường khu vực và thế giới, thì sự cắt giảm lượng cầu trong nước chẳng khác một đòn đánh bồi, giáng vào các doanh nghiệp vốn đã yếu nay càng chới với. Liền sau đó, một sự tác động điều chỉnh tâm lý theo hướng khuyến khích tiêu dùng đã được thực hiện, nhằm cứu vãn kinh tế bị đình đốn. Ở Việt Nam, một số địa phương ở miền Trung và miền Bắc do khả năng tiêu thụ trong xã hội quá thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh ở những nơi đó vào các giai đọan kinh tế nước nhà khó khăn thường có bối cảnh ảm đạm.
Những ‘lãng mạn kinh tế’ là thứ làm phong phú hoá cuộc sống, nhưng điều đó chỉ trở thành ‘hiện thực sản phẩm’ khi nào có một lượng cầu khả dĩ. Rồi chúng cần được cải tiến, hoàn thiện và nâng cao phẩm chất… Song, để làm được điều này thì khả năng tiêu thụ phải thuyết phục. Do đó, có thể nói tiêu thụ đã ‘tài trợ’ cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Còn tiêu thụ như thế nào và đến đâu thuộc một phạm trù khác cần được tách riêng để tránh ngộ nhận đáng tiếc và không làm chậm quá trình xúc tác men kinh tế. Ví dụ một người làm việc có tiền thì cứ việc đổi xe, đổi nhà, rồi lại “cày” căng hơn nếu muốn mai này đổi nữa. Đến khi thấy ‘thế cũng được rồi’ hay khả năng tài chánh kém đi thì dừng. Nhưng nếu một người nào đó khác thực hiện điều này không phải từ khả năng lương thiện thì có thể là phi đạo đức. Cần phân biệt giữa hoạt động tiêu thụ trong phạm trù kinh tế với sự vung tay quá trán, nhũng lạm ăn xài hay hoang phí ngạo mạn trong phạm trù đạo đức. Tuy nhiên, ngay cả xa xí phẩm hoặc hàng cao cấp cũng sẽ chưa là vấn đề gì đối với người đã thành đạt hoặc theo cách họ đã phải “cày” bạo hơn.
Có thể vẫn còn những cách nhìn dị ứng với tiêu thụ. Những xét đoán, cách đặt vấn đề khác nhau có thể tiếp tục gây lẫn lộn. Cũng có khi cảm tình sẽ được dành cho ai đó chỉ biết làm và bỏ ống… Tuy nhiên, ta cần biết rằng trong kinh tế hiện đại bản thân tiết kiệm đích thực (hay khôn ngoan) lại là một hoạt động ‘tiêu thụ’, là đi mua các ‘hàng hoá’ trong một thị trường khác: Thị trường tài chánh và đầu tư tài chánh nói chung. Cần đổi mới quan niệm về tiết kiệm và khuyến khích tiêu dùng tích cực, không nên có thành kiến xưa cũ hoặc quá nghiêm khắc…
Huy Nam, Viết 2000, Hiệu đính 2003