VAMC và khoảng cách còn lại

Đăng ngày

Chia sẻ:

Thông tin về Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) được thành lập và hoạt động vào Quý 2-2013 tuy có chuyển tải dấu hiệu tích cực, một sự lạc quan quá sớm với các suy diễn đơn giản lại có thể không giúp cho quá trình giải quyết vấn đề nợ xấu của nền kinh tế và tình trạng đình đốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách căn cơ như mong đợi.

Đã có nhận định cho rằng các DN có nợ xấu bán cho VAMC sẽ có thể vay vốn mới từ các ngân hàng và xem đây là khả năng hóa giải bế tắc cho doanh nghiệp, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, khai thông đầu ra cho tín dụng ngân hàng… Điều này vừa có thể là ngộ nhận vừa là điều không thể khẳng định.

Theo thông tin chính thức (Nghị định 53/2013/NĐ-CP) và những gì đến nay được biết, VAMC là một doanh nghiệp nhà nước có vốn 500 tỷ đồng từ nguồn của Ngân hàng Nhà nước, chủ yếu (hay ít ra có nhiệm vụ ban đầu) là để mua ‘nợ xấu’ của các ngân hàng thương mại, với phương thức thanh toán bằng trái phiếu không hưởng lãi, và một số điều kiện, chính sách áp dụng đối với tài sản sẽ được mua. Xét về nguồn vốn, qui mô vốn, cách thanh toán, quy định tái cấp vốn… thì VAMC như một ‘công cụ đặc nhiệm’ (SPV: Special Purpose Vehicle) của Ngân hàng Nhà nước, nói rộng hơn là của hệ thống ngân hàng.

Để hiểu vấn đề một cách chính xác ta cần biết, về khía cạnh kỹ thuật dù được gọi là mua nợ thật ra VAMC không mua nợ của doanh nghiệp con nợ, mà chỉ mua tài sản xấu (các khoản cho vay khó đòi nói chung) của ngân hàng chủ nợ. Điều này nếu có làm  nhẹ phần nào tình trạng quá xấu lâu nay (từ 2011-2013) của nhiều ngân hàng, thì vấn đề nợ xấu của doanh nghiệp trong nền kinh tế không vì thế mất đi. Nghĩa là, sau các ‘thương vụ’ mua bán giữa VAMC và ngân hàng, tình trạng nợ của doanh nghiệp vẫn còn nguyên trên sổ sách. Khác biệt quan trọng của bối cảnh lúc này là có thêm nhân tố trung gian can thiệp của chính phủ do VAMC làm đại diện. Thế nhưng, với đặc điểm thành lập (về vốn, quyền hạn, nhiệm vụ) thì VAMC có lẽ sẽ nặng gánh hệ thống ngân hàng hơn. Và từ việc giải hạn cho hệ thống ngân hàng đến sự lạc quan của cộng đồng doanh nghiệp sẽ còn là khoảng cách.

Nếu VAMC có cho doanh nghiệp điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, giảm hoặc miễn toàn bộ các khoản lãi quá hạn… thì không có gì chắc các ngân hàng sẽ cho các doanh nghiệp đã và đang đầm đìa nợ xấu được tiếp tục vay thêm. Mặt khác, cùng với thực tế đình đốn sản xuất kinh doanh do sức mua suy giảm, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp ít ỏi, khả năng khai thông đầu ra tín dụng cho hệ thống ngân hàng do đó cũng khó mong sớm sủa. Việc mua bán nợ lại cũng không thể là chuyện cứu tế, mà cần thiết là các thương vụ minh bạch. Vậy, với ẩn số giá và phí, quan hệ kinh tế giữa VAMC và các ngân hàng khách hàng sẽ cần sòng phẳng. Bởi, tiếng là bán tài sản, các khoản nợ khó đòi chẳng khác ‘của nợ’ mà ngân hàng rất cần tống khứ đi. Khỏan lỗ xử lý này do đó ngân hàng sẽ phải chịu, chứ không đơn giản chuyển qua VAMC. Ngoài ra, việc gọi chung là ‘mua bán nợ’ mà chưa rõ phương thức vận động, có chuyển quyền hay chỉ ủy quyền,  sẽ còn là vấn đề khác liên quan đến nghiệp vụ giao dịch và khả năng xử lý nợ nói chung.

Giao dịch mua bán nợ là mảng giao dịch tài sản tài chánh đặc thù, có nghiệp vụ chuyên biệt và cần một số yếu tố pháp lý nhất định ứng với từng phương thức khác nhau. Chẳng hạn, phương thức ứng vốn trước (advance factoring) có đặc điểm tài trợ trực tiếp cho bên bán, thì phương thức ủy nhiệm thu (maturity factoring) bên bán còn phải chờ… Hoặc, việc bên mua nợ có đảm nhận rủi ro (non-recourse) hay sẽ đẩy rủi ro về bên bán (recourse) là vấn đề cần minh định, đặc biệt đối với nợ xấu. Tất cả sẽ còn cần cho việc tính toán chiết giảm, để xác định giá giao dịch và chi phí.

Điều đáng nói, giao dịch mua bán nợ của thế giới phổ biến là hoạt động vì lợi nhuận và theo cơ chế thị trường. VAMC cũng tham gia mua bán nợ, nhưng nhiệm vụ lại thiên về sự nghiệp hơn là kinh doanh. Đồng thời, do tài sản mua về là nợ xấu (không khả thu), khả năng chuyển hóa các tài sản cá biệt này ra tiền sẽ lệ thuộc tiến trình hồi phục của nền kinh tế, đặc biệt là thị trường bất động sản. Điều này lại không thể một sớm một chiều, do bất động sản sẽ khó ấm lên trong vài năm. Ai đến Thái Lan năm, bảy năm sau khủng hoảng 1997 cũng đã có thể thấy rất nhiều khối nhà cao ngất vẫn còn chỏng chơ thô.

Như vậy ngay cả khi đã có VAMC, và giả định tổ chức này sẽ làm tốt chức năng mua nợ như dự liệu, thì nợ xấu vẫn còn nguyên là vấn đề của nền kinh tế. Nợ xấu lại không nhỏ và có dây mơ rễ má phức tạp, việc sẽ mua món nào, của ai, quy mô ra sao… không đơn giản. Thật vậy, theo John Sheehan (tổ chức giám định FRICS thuộc Hoàng Gia Anh), số nợ xấu thực sự so với công bố tại các thị trường minh bạch thường gấp hai lần và tại các thị trường kém minh bạch thường gấp 4 lần (Thái Lan số công bố 1996 là 5% thì sau khủng hoảng 1997 là 50%; Ireland số công bố 2007 là 8% đến khi khủng hoảng 2010 là 30%).

Là vấn đề của nền kinh tế, nợ xấu vừa là hậu quả của sự đình đốn kinh tế, vừa là nguyên nhân làm hao hụt niềm tin xã hội. Việc giải quyết nợ xấu do đó sẽ khó thành công nếu không đi cùng các chuyển động vĩ mô mang tính đột phá trong nỗ lực khôi phục các hoạt động kinh tế nói chung. Kinh nghiệm thế giới có nhiều. Chẳng hạn, sau sự tàn phá từ khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997, Hàn Quốc đã đổi chiến lược phát triển kinh tế dựa vào đại công ty (chaebol) để thay bằng lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Họ tập trung tài lực với các chế định ưu đãi, khuyến khích phát triển hằng loạt doanh nghiệp thuộc các lãnh vực mũi nhọn, công nghệ cao, tiên phong sáng tạo. Tại Thái Lan, bên cạnh nhiều chính sách kinh tế mới thúc đẩy và khơi dậy các nguồn lực tiềm năng, quyết định kiêm nhiệm bộ trưởng giáo dục của thủ tướng Thaksin ngay sau khi nhậm chức đã tạo nên niềm hưng phấn độc đáo từ việc trồng người. Nhờ định hướng đúng và cách ‘chăm từ gốc, trồng từ đất’ như vậy, với môi trường cởi mở đầy cơ hội, nhiều nước đã vượt khúc quanh khô hạn rất tốt. Tuy nhiên, cái giá phải trả cho sự tiêu tốn thời gian là không nhỏ.

Trở lại với VAMC… VAMC “không phải là cây đủa thần” có thể sớm dệt nên mùa xuân cho nền kinh tế. Vâng, bởi từ lúc có VAMC cho đến khi nền kinh tế gượng dậy và lấy lại được sức sống sẽ cần nhiều nỗ lực song hành và đồng bộ khác. Và bởi khi ôm về đống nợ xấu (cùng với tài sản bảo đảm) mà kinh tế doanh nghiệp vẫn đình đốn thì VAMC cũng sẽ dễ bế tắc. Việc ‘nuôi’ con nợ và ‘dưỡng’ tài sản bảo đảm lại không đơn giản là việc của VAMC. Quá trình giải quyết nợ xấu sẽ còn lệ thuộc nhiều vào tình trạng thị trường nói chung và thị trường tài sản nói riêng. Chỉ khi sản xuất kinh doanh tươi tốt lên và niềm tin xã hội đã phục hồi thì huyết mạch tài chánh mới cải thiện. 

Cho dù khả năng phục hồi sức sống doanh nghiệp và tái lập cảm hứng tiêu dùng và đầu tư còn khoảng cách, sự ra đời của VAMC ít nhiều sẽ cho hy vọng giảm nhẹ âu lo nợ xấu. Cũng hy vọng khi đi vào hoạt động, VAMC sẽ chạm đến và đặt vấn đề cho các quyết sách đột phá giúp kinh tế nước nhà có điều kiện hồi phục nhanh và thoát lên vững. Đây sẽ là hiệu ứng tích cực, tuy có chút tiếc như vậy là chậm. Cuối cùng, điều gì chính VAMC và nền kinh tế không chờ đợi là những vấp váp kém thuyết phục như SCIC…

Xem thêm bài viết