Trong một cuộc hội thảo về ký kết hợp đồng kinh tế, một luật sư nước ngoài có quá trình làm việc 10 năm với Vệt Nam lưu ý rằng: Hãy thận trọng, vốn ghi trong điều lệ có cả tỷ đô-la nhưng cần xem tiền thực góp là bao nhiêu?…(*) Ở ta ý này không khác, nhưng đã có cách làm khó hiểu: Lúc thì dựa vào lượng cổ phần khi thì căn cứ vào giá trị (tiền), một công ty tuy thật sự chỉ huy động vốn có một lần, lại có thể nhiều lần làm động tác “tăng vốn”. Chuyện nghe kỳ lạ, chưa có một lý giải vững chắc nào nhưng cũng được “nhân điển hình”. Do đâu?
Thực trạng: Đầu tiên là do cách hiểu. Tư duy “vốn-điều-lệ” theo khuôn khổ “công-ty trách-nhiệm-hữu-hạn” tỏ ra không hợp với “công-ty-cổ-phần”. Do quán tính, một số tiền “cứng” được ghi vào điều lệ và bị hiểu lầm là cơ sở ‘trách nhiệm hữu hạn’. Chỗ “không có tóc” này lại bị quản một cách máy móc đưa đến lắm cách làm vô lý. Bởi, số tiền đó chỉ có thể là giá trị ước định cho lượng cổ phần tại thời điểm được ghi mà vào lúc khác nó có giá trị khác. Minh hoạ sau giúp làm rõ vấn đề.
Ví dụ, một công ty có vốn ban đầu ghi trên điều lệ là: “vốn 20tỷ đồng–tổng số cổ phần 2triệu–mệnh giá 10.000đ”. Sau đó vào lúc thị giá 20.000đ/cp, công ty huy động thêm 10tỉ đồng, và chỉ phát hành 500.000cp là đủ. Tình trạng thực nay là “vốn thực góp 30tỷ, tổng số cổ phần 2,5triệu”. Nhưng, cách hiểu lệch đã cho phép công ty chỉnh điều lệ là “25tỉ đồng và 2,5triệu cp”. Vậy là Vốn thực góp đã bị bóp méo, bị tách ra phi lý. 5tỉ đồng dôi ra có thể tiếp tục bị ‘vận dụng’ lòng vòng: Được qui về mệnh giá để “tạo” thêm 500.000cp. 500.000cp này được chia cho 2,5triệu và mỗi cổ phần đang lưu hành sẽ nhận thêm 0,2cp …khống. Chỉ thêm gánh nặng chứ không có tiền, việc này lại được mệnh danh ‘phát hành để tăng vốn’, nghe oai thật. Sự vận dụng tùy ý ‘lúc thì dựa vào giá trị khi thì dựa vào cổ phần’ đó đưa đến điều lạ: Cùng một số tiền huy động có thể có hơn một lần xin phép phát hành và chỉnh điều lệ! Động tác giả này đã khó lý giải lại có thể đặt công ty vào thế bất lợi.
Có hợp lý? Sau khi phân chia lại, nhóm người vừa đóng góp 10tỉ (nhóm sau) nay sở hữu 600.000 cổ phần. Giả sử tài chánh công ty còn chân phương, chưa có tích lũy, thì theo tinh thần cách tính và xét về lý, có vẻ như nhóm sau này tham gia vào công ty chỉ 6tỉ (600.000 x 10.000đ). Như vậy còn 4 tỷ công ty đã thu của họ nhưng lại “đem chia cho người khác” nghĩa là gì? Cần nhớ là họ gia nhập công ty chứ không trực tiếp mặc cả với cổ đông cũ. Không như phương thức tách cổ phiếu, cách chia tươi này vừa tước đi lợi thế (nội lực) công ty, vừa cho người mua sau tâm lý bị cắt xén. Đối với công ty, lượng cổ phằn gia tăng duy ý chí đó không cải thiện ‘tư thế đối tác’ hay chứng tỏ ‘sự lớn mạnh’ như từng có suy nghĩ đơn giản. Trái lại là gánh nặng dễ làm công ty “mất sức”, nghĩa vụ gia tăng, áp lực hiệu quả căng hơn, cổ tức bị teo lại do số chia tăng lên đột ngột, tạo tâm lý bất lợi. Đó là ta mới chỉ nói giá cổ phần tăng. Trường hợp giá giảm (ví dụ lúc huy động 10tỉ kia giá bán chỉ còn là 5.000đ/cp) thì liệu cách dọn cỗ bằng chính thịt của mình này có còn là khái quát hợp lý?
Bên cạnh đó, không thể không đề cập một khía cạnh khác của vấn đề…Vì nhiều lý do, công ty có thể giảm vốn cổ đông, thực chất là giảm lượng cổ phần đang lưu hành. Chẳng hạn, công ty mua lại và rút hẳn 250.000 cổ phần giá trị 5tỉ đồng, nếu trên điều lệ còn nguyên vốn ban đầu là 20tỉ thì tiền này được điều chỉnh ra sao? Trừ đi 5tỉ hay 2,5tỉ đều không phải là cách.
Thủ phạm ẩn khuất làm rối tình hình cần được đưa ra ánh sáng là sự cuồng tín vào mệnh giá. Đã gọi là thị trường chứng khoán mà ta cứ bắt cổ phần nhốt vào mệnh giá 10.000đ! Cách làm khiên cưỡng này với công ty cổ phần là không khoa học. Tại sao? Cổ phần là đơn vị xác định mối quan hệ giữa cổ đông và công ty. Cổ đông trả tiền mua và công ty nhận tiền bán cổ phần. Quan hệ này sòng phẳng, là sự thỏa đáng về giá chứ không dựa vào mệnh giá. Mẫu số chung cổ phần mặc nhiên loại bỏ yếu tố biến động giá của chính nó. (Vì thế, cổ tức trả cho cổ phần là số tiền, chứ làm sao tính được phần trăm?). Cần nhớ, cổ đông và công ty có tư cách độc lập. Nên về nguyên tắc, nếu công ty nhận được nhiều tiền hơn và phát ra ít cổ phần hơn là có lợi thế. Vậy lý do gì công ty lại từ bỏ lợi thế đó? Lại đi phát khống cổ phần? Giả thiết có hai công ty phẩm chất như nhau, vốn thực góp cùng là 30tỷ, nhưng có lượng cổ phần lưu hành khác nhau, là 3triệu và 2,5triệu, hỏi công ty nào có lợi thế hơn? Chưa xét gì nhiều, chỉ cần so sánh giá cổ phần theo sổ sách thì rõ: Công ty có lượng cổ phần ít hơn lợi thế hơn. Vâng, là lý lẽ “the fewer the better cheer”. Ta cũng nên lưu ý, nếu cổ đông có quyền lợi và trách nhiệm hữu hạn theo cổ phần thì công ty có trách nhiệm và nghĩa vụ vô hạn dựa trên tài sản (tiền). Chỗ này dễ lẫn lộn nếu vốn bị gò vào mệnh giá.
Sự thật là gì? Cần thay đổi cách tư duy. Quản lý hành chánh cần rạch ròi nghĩa vụ và quyền lợi dựa trên cổ phần, do đó, trên điều lệ lượng cổ phần sẽ được chú trọng. Nhưng đấy cũng mới chỉ là lời tự khai và được thừa nhận trên danh nghĩa. Cần nhớ là bản điều lệ có trước khi công ty thành lập, việc góp vốn sau đó mới được thực hiện.Vốn này sẽ còn thay đổi dài dài khi công ty có các giao dịch cổ phiếu của chính mình. Tất cả các phát sinh sẽ được ghi nhận hay điều chỉnh (tăng giảm) trực tiếp vào sổ sách kế toán. Chỗ này rất cần hậu kiểm! Không kiểm soát vốn khi thành lập, luật pháp sẽ buộc anh công bố vốn thực góp của cổ đông. Đến đây, nó kích hoạt cả một hệ thống giám sát, toàn diện và có vẻ không giới hạn: Cơ quan thuế, tài chánh, TTCK, kiểm toán, đối tác, giới tài trợ, nhà đầu tư, giới phân tích giá… Do vậy ta thấy nguyên tắc không kiểm soát vốn không là điều ngẫu nhiên hay ngẫu hứng, cũng không có sự chiếu cố gì đặc biệt. Trong khi nó giúp mở cửa (khác với “thả cửa”) để doanh nghiệp ra làm ăn dễ dàng, thì đồng thời phép nước cũng đặt doanh nghiệp trước hành lang kỷ cương và yêu cầu “hậu kiểm” thường xuyên.
Như vậy, thực chất vấn đề vốn không nằm trong điều lệ. Từ “vốn điều lệ” mà ta quen dùng có thể gây ngộ nhận, và có vẻ không ích lợi. Ta dịch “vốn điều lệ” là “charter capital”, thực ra Anh Mỹ không có thuật ngữ này. Trên điều lệ, tổng số cổ phiếu được quyền chào bán (thuật ngữ của Luật DN) mới quan trọng và cần được thể hiện khi đăng ký. Chính lượng cổ phiếu này là con số cần giải trình và được thừa nhận, theo luật, chứ không phải muốn ghi sao cũng được.
Công bố vốn: Kể từ đây, việc công bố vốn sẽ phải được công ty thực hiện một cách bắt buộc và thường xuyên (bằng bố cáo hay thông tin theo quy định). Công bố thế nào? Trong tổng số cổ phiếu được quyền chào bán (authorized shares hay authorized capital stock) ghi trên điều lệ, phần nào đã bán xong (paid-up shares) và đã thu tiền (direct payment) thì phải được công bố là vốn thực góp (paid-up capital). Ngày trước, các công ty cổ phần tại Sàigòn gọi đây là vốn góp đủ. Vốn thực góp có bản chất là một giá trị thuần nhất, nhưng cũng có thể ghi chép theo cách minh họa như sau: Giá trị cổ phần sáng lập (đợt đầu tiên và duy nhất) được gọi là vốn mệnh giá (par value). Các đợt góp vốn sau nếu giá cổ phần cao hơn thì khoản dôi lên gọi là vốn góp chênh lệch (paid-in surplus). (Khoản chênh lệch dôi lên khi bán lại cổ phiếu quỹ cũng có tính chất như paid-in surplus). Gọi hoặc ghi vậy chỉ có ý nghĩa thông tin chứ không nhằm mục đích phân biệt hay tách ra. Do mệnh giá là thứ chóng bị mất ý nghĩa, ngày nay nó không còn được chú trọng, các cổ phần được phát hành thường có bản chất là không mệnh giá (no par).
Việc cần phân biệt là, giữa vốn thực góp (paid-up capital) và vốn chủ sở hữu (owners’ equity). Vốn chủ sơ hữu là tài sản thuần (net assets) của công ty, bao gồm vốn thực góp của cổ đông cộng lợi nhuận giữ lại (retained earnings), hay trừ đi phần lỗ. Suy cho cùng, công ty có làm ăn tốt, có tiềm lực hay không thể hiện ở phần retained earnings, với điều kiện là khoản lợi giữ lại này được sử dụng hiệu quả. Các nhà phân tích kinh tế tài chánh thường đánh giá chất lượng quản trị của lãnh đạo công ty thông qua khả năng sử dụng hiệu quả và/hoặc xử lý khôn ngoan khoản tiền này. Tiếc thay, nhiều công ty cùng lúc cũng đã gói luôn khoản này đem chia!…(**)
Vậy là rõ: Điều lệ xem trọng lượng cổ phần; sổ sách kế toán xem trọng vốn thực góp. Do đó, chỉ khi nào lượng cổ phần thay đổi thì công ty mới điều chỉnh điều lệ, việc này xảy ra khi: (1) Công ty phát hành thêm cổ phiếu để huy động tăng vốn; (2) Chia cổ tức bằng cổ phần (giảm retained earnings, tăng tương ứng paid-up capital); (3) Mua lại cổ phiếu và rút hẳn để giảm vốn (giảm lượng cổ phần trên điều lệ và giảm vốn trong sổ sách kế toán); và (4) Tách gộp cổ phiếu. Trong bốn trường hợp nêu trên, 3 trường hợp đầu công ty cần công bố vốn điều chỉnh.
Chưa thoát được nếp cũ, nên dù luật có hội nhập thì “lệ” lại vẫn thích cách riêng. Khác nào trên bảo mở nhưng dưới lại trổ cửa khác. Liệu có sẽ tiêu tốn để sửa, có chậm tiến trình, vuột cơ hội và bào mòn niềm tin? Là trí tuệ được đúc kết hằng trăm năm, học và ứng dụng thôi cũng đã bạc đầu…
(Báo Đầu tư Chứng khoán, 9-2002, Tạp chí Chứng Khóan VN.)
(*) Mượn ý của luật sư Lucy Wayne, giám đốc hãng luật Lucy Wayne & Associates, tại hội thảo “Hợp đồng quốc tế, các chỉ dẫn và cạm bẫy bất ngờ” – Thời báo KTSG 22-8-2002.