Từ “equitization” nghĩ đến hội nhập…

Đăng ngày

Chia sẻ:

Người nước ngoài mới đến Việt Nam, đặc biệt là giới kinh tế tài chánh, đọc báo tiếng Anh tại chỗ có thể sẽ khó hiểu ta muốn nói gì với equitization, cho dù đó là người Anh hay Mỹ. Chuyện có vẻ lạ nhưng lại đơn giản vì thật ra trong tiếng Anh không có từ equitization.

Vẫn là tiếng Anh… Lâu nay ta quen gọi cổ phần hoá là equitization đến mức… không muốn nghe ai nói khác! Đồng thời vì nhiều lý do, cũng ít ai tìm hiểu kỹ cổ phần hóa tiếng Anh chuyên ngành gọi là gì, hoặc có hay không từ equitization trong tiếng Anh? Chỉ biết, từ những năm ‘90 khi chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tại Việt Nam đi vào cụ thể, một số báo tiếng Anh trong nước khi đưa tin hoạt động này đã gọi đó là equitization. Sau đó, do được dùng thường xuyên hơn, báo chí một số nước có thông tín viên tại Việt Nam, nhất là các tờ báo trong khối Asean và châu Á, hoặc các tổ chức kinh tế tài chánh quốc tế có theo dõi quá trình này tại Việt Nam, cũng đã bê nguyên từ equitization lên các bài viết của họ. Tuy nhiên, đáng lưu ý là giới chuyên nghiệp thường thận trọng đặt “thuật ngữ” này trong cái nháy nháy, thêm “so called”, hay thêm từ “interchangeable” với đôi lời giải thích.

Như vậy, có lẽ do được bắt đầu từ các phương tiện chính quy và chính thức (một tờ báo hay một tài liệu phát tán nào đó), được lặp đi lặp lại hay dùng theo như một cách nói riêng, nên ít ai đặt thành vấn đề đúng sai. Hơn nữa, cho dù nếu có ai đó biết rằng dùng tiếng Anh trong bối cảnh kinh tế tài chánh như vậy là không đúng thì họ cũng ngại nêu lên, một phần vì sợ bị lẻ loi, một phần như cảm thấy thiếu tự tin. Chuyện tuy nhỏ nhưng lại khó nói chỉ vì chung quanh ai cũng dùng cũng hiểu cả. Thậm chí có người còn tin rằng thế giới sẽ theo ta thôi! (Hơi quá đáng!) Dù sao thì cũng không nên bỏ qua sự thật đây là tiếng Anh. Rất nhiều cách nói đã quá quen lại đang tỏ ra trở ngại khi đi ra, trong quá trình nghiên cứu trao đổi thông tin với thế giới.

Dùng thì dùng nhưng thực tế không ít người vẫn còn hoài nghi hay cứ bị ngờ ngợ về độ chuẩn của equitization. Ít ra một lần họ đã nghe equitization không phải là thuật ngữ tài chánh chính hiệu, không phải là từ có khả năng chuyển tải hoạt động cổ phần hóa. Vì ngoài ‘từ điển Lạc Việt’, sẽ khó tìm đâu ra từ equitization, kể cả việc truy tìm trong nhiều tự điển hiện nay ở Anh Mỹ. Lên mạng và nhờ “google” search dùm, dù từ này có được “thống kê” trong các tin và bài viết thì cũng chỉ nói riêng về cổ phần hoá ở Việt Nam! Vậy thuật ngữ tương đương để chỉ bối cảnh mà các xứ nói tiếng Anh dùng là gì?

Về kỹ thuật, nếu hiểu hoạt động cổ phần hoá một cách tổng quát là quá trình tái cấu trúc về vốn và sở hữu doanh nghiệp thì tùy trường hợp và ngữ cảnh cách nói tương thích trong tiếng Anh là equity restructuring, equity financing, going public hay initial public offering (IPO). Trường hợp hiểu cổ phần hoá là việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần, với quá trình phát hành cổ phiếu ra công chúng, thì ta có thể gọi đó là SOEs going public hay SOEs launch IPO. Tất cả các hoạt động vừa nói là nằm trong tổng thể cải cách DNNN và tiếng Anh tương đương gọi chung là state-owned enterprises reform, gọi tắt là SOEs reform. Báo chí tại nhiều nước còn gọi thẳng hoạt động này là “sale”. Ví dụ thông tin về “state-owned businsess on sale” là việc bán bớt một phần hay toàn bộ sở hữu của nhà nước. “Sale” là cách nói phổ biến trong hoạt động cấu trúc lại vốn chủ sở hữu ở thị trường tài chánh chứng khóan. Ví dụ một “SOE offer for sale” có thể chỉ bán một lượng cổ phần nào đó của công ty ấy thôi.

Trở lại với equitization, có lẽ từ này được tạo dựng dựa theo thuật ngữ equity, nhưng do không nắm rõ thuật ngữ tài chánh nên đã có sự nhầm lẫn đáng tiếc. Equity có nghĩa gốc là vốn chủ sở hữu. Người ta còn dùng equities để chỉ cổ phần (ordinary hay common shares), và điều cần nhớ khi dùng cho ý sau này thì nó luôn luôn phải được viết ở số nhiều (equities). Vậy là trong tiếng Anh chỉ có equity hoặc equities chứ không có equitization. Hơn nữa, vì equity là vốn chủ sở hữu cho nên dù ta có “equitize” (vốn hoá) nó đi thì vốn chủ sở hữu vẫn chỉ là nó. Như vậy suy cho cùng thì equitization chẳng có ý nghĩa gì nên không ai dùng. Còn nếu gắn equitization với equities thì gượng ép quá. Nhưng việc gì phải “tự chế” khi mà tiếng Anh đã có sẵn?

Điều đáng nói, ngay cả việc người ngoài nếu phải chấp nhận nhập gia tùy tục, để hễ ai vào Việt Nam đều cần phải hiểu equitization theo cách của Việt Nam, thì đồng thời equitization cũng sẽ chẳng thể “xuất ngoại” được, nghĩa là không hội nhập được. Điều này quan trọng, vì khả năng thông đạt ra nước ngoài sẽ bị hạn chế do chính ngôn từ không tương thích. Một người ngoại quốc có thể hiểu equitization theo cách của ta, và chỉ với trường hợp của ta thôi, nhưng họ sẽ mất công “dịch” phương ngữ này sang thuật ngữ phổ biến khi muốn thông tin nối tiếp về nước họ. Vậy thì liệu có nên? Thực tế có nhiều tài liệu trên website đã dịch từ này từ “equitzation” sang “to launch IPO”; “SOEs reform”; hay thậm chí “privatization”.

Câu chuyện trên đây lại chưa phải đã dừng ở “equitization”… Là doanh nhân, quan chức chính phủ, nhà báo, sinh viên, nếu vì đã quen dùng từ nội địa, để rồi lúc đi ra nói nó lên không ai hiểu, bị question là “what do you mean?”, thì đáng tiếc vậy. Phải chăng cũng vì lý do bất tiện vừa nêu nên cách đây không lâu Singapore đã quyết tâm từ bỏ loại tiếng Anh mà có thời họ từng tự hào là của riêng họ, để ngày nay ta không còn nghe nhắc đến Singlish nữa!

Huy Nam, 2003

 

Xem thêm bài viết