Nhìn sâu vào một bối cảnh tài chánh… Để thu hút nguồn FPI tiềm năng

Đăng ngày

Chia sẻ:

Cho đến năm 2005, sự đóng góp của nguồn đầu tư tài chánh nước ngoài (FPI – foreign portfolio investment) vào nền kinh tế vẫn còn khá mờ nhạt. Tại nhiều diễn đàn trong nước, nếu con số 300 triệu USD (khoảng 0,1% qui mô nguồn FPI thế giới) được nêu lên như sự mong ước, thì đến cuối 2006 điều đáng ghi nhận là nguồn FPI đã có thể vượt hơn gấp đôi con số kia, sẵn sàng phá ngưỡng 1 tỷ USD..

Một cái nhìn khác. Vào giữa năm 2007, lúc tổng vốn hoá thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam khoảng 20 tỉ USD (HOSE #15,5 tỉ + HASTC #4,5 tỉ), thì giá trị vốn hoá tính riêng cho đầu tư nước ngoài là gần 5 tỉ USD (khoảng 25% tổng thị trường). Cũng vào khoảng thời gian này, giới tài chánh trong và ngoài nước đã đưa ra con số ước đoán nguồn vốn FPI đầu tư vào TTCK Việt Nam trong năm 2007 có thể lên đến 2 tỉ USD. Đến năm 2007, số quỹ đầu tư nước ngoài lớn nhỏ đã vào thị trường Việt Nam là khoảng trên 60, với số vốn ‘mai phục’ khoảng 6 tỉ USD. Trong số đó, chỉ riêng 3 ‘ông lớn’ Dragon Capital, Vina Capital và Indochina Capital có số vốn tròm trèm 4 tỉ USD. Những thông tin vừa nêu cho thấy vai trò của nguồn vốn đầu tư tài chánh nước ngoài đã có bước tăng nhanh đáng kể.

Với triển vọng về đà tăng của nguồn FPI, theo nhiều dự đoán nếu giữ được nhịp độ Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút nhanh nguồn này. Nếu tỉ lệ phổ biến nguồn đầu tư tài chánh so với đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FPI so với FDI) của các nước trong khu vực hiện nay vào khoảng 10%~50%, thì tiềm năng và dư địa cho nguồn FPI của Việt Nam được xem là còn rất lớn. Về ngắn hạn, ta có thể hình dung bối cảnh qua cách so sánh giữa nguồn vốn FPI và FDI dựa trên cơ sở năm. Giả định trong ba năm tới (đến 2010), mỗi năm nguồn FPI sẽ giải ngân được 2 tỉ USD, đem so mức này với số vốn FDI sẽ thực hiện theo kế hoạch (là 6 tỉ USD mỗi năm) trong cùng thời gian này, thì tỉ lệ FPI so với FDI tính từng năm trong ba năm tới sẽ đạt trên 30%, (dự kiến nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội 2006-2010 là 150 tỉ USD, trong đó số FDI phấn đầu giải ngân là 30 tỉ). Tuy vậy, để tỉ trọng FPI có thể tăng nhanh và ổn định, ở ta còn rất nhiều việc cần làm (ta sẽ đề cập ở phần sau). Cũng dễ thấy, dù cả hai nguồn nay đều bị thắt nút ở đoạn giải ngân, thì với FPI việc này có vẻ đơn giản hơn.

Năm 2007 cũng chứng kiến nhiều thương vụ FPI lớn. Nổi bật là việc Công ty Bảo Hiểm Tập Đoàn Tài Chánh HSBC mua 10% cổ phần Bảo Việt với số tiền lên đến 225 triệu USD. Ta thấy, chỉ một thương vụ thôi đã gần bằng con số ‘300 triệu USD’ mơ ước của hồi 2005! Nhiều qũy đang theo đuổi các khoản đầu tư có qui mô khá cao. Indochina Capital chẳng hạn, đã đưa ra tiêu chí từ 5 đến 15 triệu USD mỗi khoản.

Tuy nhiên, những gì đã và đang diễn ra chỉ mới là khúc dạo đầu. Theo ý kiến của nhiều nhà quan sát, nền kinh tế Việt Nam đang nổi lên như một vùng đất màu mỡ, dung lượng thị trường đầu tư tài chính (xét theo qui mô tuyệt đối) còn rất lớn. Chưa biết con số ước 6 hay 10 tỉ USD trong vài năm tới đối với ta có sẽ khả thi, là lớn hay nhỏ, nhưng so với nhiều nước khác thì qui mô ấy vẫn chưa là gì. Ví dụ như Malaysia, hiện nay nguồn vốn FPI của họ đang ở mức 50 tỉ USD. Con số này theo đánh giá lại không quá xa tầm với trong bối cảnh kinh tế tăng tốc của Việt Nam.

Có thể nói, từ chỗ đói vốn không lâu trước đây, nay nhiều nguồn tiền đang đợi sẵn ngoài cửa doanh nghiệp. Điều này tuy có cho lạc quan nhưng là thận trọng, do việc tiếp nhận thế nào (ở đây là việc giải ngân nguồn FPI) còn là vấn đề. Khác với đầu tư trực tiếp, là lĩnh vực nhiêu khê từ khâu kiếm đất và trăm thứ vất vả trong quá trình thực hiện, đầu tư tài chính vào doanh nghiệp có thể ví như việc mua lại hay hùn thêm vào thực thể có sẵn, nên không quá phức tạp. Thế nhưng, việc giải ngân tưởng chẳng khó khăn thì thực tế lại chưa chắc dễ hay không được vậy. Nếu so số thực được giải ngân với nguồn tiềm năng FPI đến năm 2007 ta có thể dễ nhận ra điều này. Vấn đề nằm ở đâu? Ở môi trường và sự nhận dạng các cơ hội khả thi. Đây là những nội dung liên quan đến khả năng tiếp cận và tiếp nhận vốn (của doanh nghiệp trong nước) và chủ trương hay mục đích đầu tư (của phía nước ngoài). Sự so le về cách hiểu và mục đích hay mong đợi riêng có thể tạo ra bế tắc. Nhiều trường hợp, trong khi mọi thứ đều tốt đẹp, kể cả tốn nhiều tháng để làm ‘due diligence’ (thẩm tra), nhưng chỉ vì không đồng ý với cái ‘tôi’ vốn có (không ở lâu) của một quỹ đầu tư, cuối cùng là dang dở.

Để có cái nhìn sâu vào vấn đề, và cũng để cho dễ khảo sát, ta tạm chia nguồn FPI chảy vào nền kinh tế theo hai phân khúc: Một là đầu tư mua cổ phần doanh nghiệp (hay mua bán sáp nhập), và hai là mua bán  thứ cấp (mua đi bán lại trên TTCK). Việc mua bán thứ cấp tuy quan trọng (có thể tối quan trọng vì không có sân này doanh nghiệp sẽ đói vốn) nhưng dù sao đó là khâu thanh khoản, nên sau đây ta chỉ bàn sâu đến phân khúc đầu.

Hoạt động đầu tư mua cổ phần từ nguồn vốn FPI của các tổ chức nước ngoài hiện nay có thể khái quát là việc thủ đắc (sở hữu) một lượng lớn cổ phần tại các doanh nghiệp trong nước (M&A). Cho dù theo thông tin, có vẻ như nguồn này đang tập trung vào các cơ hội cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thì trong thực tế khu vực doanh nghiệp tư  gần đây đã lặng lẽ thu hút nguồn này khá mạnh. Đồng thời, dù các doanh nghiệp trong nước thường ví việc này như kết ước hôn nhân thì, với các tổ chức tài chính nước ngoài, việc mua cổ phần của họ có một số mục đích khác nhau. Nhưng dù là mục đích gì, chú trọng số một của tất cả họ là lợi tăng vốn (capital gain). Đây lại chính là đích đến của hoạt động đầu tư tài chính. Nói rõ hơn, sản phẩm họ o bế là cổ phần của doanh nghiệp, chứ không phải thứ mà doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh. (Có thể loại trừ trường hợp họ đầu tư vào doanh nghiệp cùng ngành để dọn đường hay tìm thế đứng, ví dụ ngân hàng nước ngoài mua cổ phiếu của ngân hàng trong nước).

Trong khi có thể họ không màng đến chuyện lâu dài như vậy, thì doanh nghiệp ta lại nghĩ họ là ‘bạn đời’ và phong cho họ hàm ‘chiến lược’. Cứ khá tiền là chiến lược, nhưng đôi khi cũng chẳng khá gì, vì nếu tính tương đối thì không ít trường hợp đó chỉ là một vài phần trăm. Trong đàm phán, nhiều anh chiến lược còn không chịu ở quá một năm, thậm chí đòi sáu tháng cho tôi bán, thì làm sao mà chiến lược được! Ta thông cảm với họ vậy, vì nghề của họ là kinh doanh tiền. Thế nên, gọi họ là đối tác tài chính hay cổ đông lớn đúng hơn. Mặt khác, nếu một doanh nghiệp mà có đến cả chục hay vài chục anh chiến lược (hiện không ít nơi là vậy) thì chiến lược liệu có rối?!

Nói là nói vậy, nguồn lực FPI có cái hay riêng và sự thuyết phục của nó. Sức hấp dẫn của nguồn tài chính này thể hiện qua qui mô đầu tư và bản chất mạo hiểm. Hơn nữa, cho dù việc tham gia vào doanh nghiệp là để vỗ béo một khoản đầu tư,  nhưng không chỉ có vậy và ngắn vậy. Thật ra, trong quá trình vỗ béo đó nhà đầu tư tài chính sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều điều lợi. Ngoài nguồn vốn mạnh, sự hỗ trợ về kinh nghiệm quản lý, phát triển thị trường, hoạt động xúc tiến, quan hệ quốc tế, thu xếp kết nối… là những việc mà doanh nghiệp luôn cần. Nếu sau một thời gian họ có thanh lý khoản đầu tư của mình (bán đi), thì việc này cũng sẽ diễn ra ngoài doanh nghiệp, và biết đâu người khác thế chân sẽ tốt hơn. Dù không ở lâu, và thường không trực tiếp tham gia quản trị điều hành, các nhà đầu tư tài chính lớn lại rất quan tâm đến việc giám sát (qua đại diện trực tiếp hoặc công ty kiểm toán). Điều này gián tiếp thúc đẩy doanh nghiệp mạnh lên. Công bình mà nói, thời gian qua chính nguồn FPI này đã góp phần giúp nhiều doanh nghiệp lớn mạnh, sẵn sàng hội nhập và cất cánh.

Hoá ra các cổ đông chiến lược lâu nay đa phần là cổ đông lớn thôi chứ chưa phải chiến lược đúng nghĩa. Vậy thì doanh nghiệp trong nước làm thế nào để có đối tác chiến lược đúng nghĩa trong quá trình tiếp nhận vốn FPI? Câu trả lời là nên thay đổi quan điểm và cách tiếp cận, vì đối tượng sẽ kén hơn. Đối tượng nào mà gọi là kén? Đó là các nhà đầu tư có khuynh hướng đầu tư trực tiếp, nhưng thay vì thành lập doanh nghiệp mới, họ tham gia thị trường thông qua ‘cửa’ đầu tư tài chính. Do có sự tích cực như vậy, họ thường đòi tỉ lệ sở hữu cao, thường là không dưới 20%. Lý do? Ngoài yêu cầu sẽ trực tiếp tham gia điều hành doanh nghiệp (đây thường là điều kiện tiên quyết), việc nắm giữ tỉ lệ cao có thể là để đáp ứng các yêu cầu theo tiêu chí công bố tài sản trên các báo cáo tài chính bên nước họ. Cũng có trường hợp, nhìn hình thức thì có vẻ đầu tư tài chính, nhưng thực chất hoặc đường dài đó có thể sẽ là chiến lược. Trường hợp Bảo Hiểm HSBC mua 10% Bảo Việt có khả năng thuộc dạng này. Bởi theo thông tin, sau khi nắm 10% họ còn có ý định mua tiếp 8% (phần dành cho đầu tư nước ngoài còn lại) và sẽ tiếp tục nâng tỉ lệ sở hữu lên 25%. Các nhà đầu tư có khuynh hướng đầu tư trực tiếp thông qua ‘cửa FPI’ nói ở phần này cũng không loại trừ là khách hàng tiềm năng của thị trường thâu tóm và sáp nhập (M&A). Có thể ví von lĩnh vực M&A như một cung bậc cao của hoạt động tài chính, nhưng có đoạn kết là đầu tư trực tiếp, và do vậy, cách thủ đắc doanh nghiệp kiểu này không hề là đầu tư ‘gián tiếp’.

Đến đây, xin được mở ngoặc để bàn một chút về cách gọi ‘đầu tư gián tiếp’ mà, với trường hợp nước ngoài, nhiều nơi ở ta đã dịch ra tiếng Anh là ‘foreign indirect investment’ và gọi tắt là FII. Thật ra, có thể nói trong kinh tế tài chính không có hoạt động đầu tư  sinh lợi nào là gián tiếp cả. Gọi gián tiếp rất dễ bị diễn dịch sai và lẫn lộn với các dạng đầu tư không sinh lợi. Vã lại, FII hay indirect investment cũng không có trong tiếng Anh chuyên ngành. Cách gọi chuyên ngành là portfolio investment, là đầu tư tài chính hay đầu tư theo danh mục. Đối với nguồn nước ngoài thì người ta thêm foreign vào và gọi đó là FPI. Dòng FPI tuy dồi dào nhưng biến động, hoạt động chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư. Mục đích hoạt động của các quỹ khá đa dạng, đôi khi rất ‘diều hâu’ hoặc bảo thủ, ví dụ loại hedge fund (quỹ đầu cơ, xem TTCK: Kỹ năng Chọn lựa Đầu tu, Huy Nam, NXB Trẻ, 2000). Điểm chung của các quỹ đầu tư là không cam kết dài hạn, đặc biệt là loại mạo hiểm (venture capitalist).   

Suy cho cùng, khi nguồn FPI được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì nó không có mấy khác biệt so với nguồn FDI. Bởi nhìn từ góc độ doanh nghiệp, hai chú “mèo đen mèo trắng” này đều có đóng góp tốt ngang nhau. Nhưng đó là khi doanh nghiệp tiếp nhận vốn FPI trực tiếp từ quá trình IPO hay huy động bổ sung. Còn nếu nguồn này đi thẳng vào phân khúc sau (mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp) thì là chuyện khác. Khác là vì nó nhạy cảm, là nơi cần đến các chính sách vĩ mô khéo léo.

Vậy là, khi có quan điểm nhìn nhận đúng, doanh nghiệp sẽ vừa có đối tác chiến lược thật sự (cho phát triển ngành nghề) vừa có đối tác tài chính (cho yêu cầu trường vốn). Sự nhìn nhận mạch lạc cũng góp phần loại bớt các bế tắc, hoá giải căng thẳng do thiều thông hiểu trong đàm phán và làm quyết định. Nôm na, doanh nghiệp chẳng những có tiền mà còn được cả bạn hiền. Anh này là chiến lược thì anh kia là chiến hữu, anh nào cũng quan trọng cả. Sự đồng hành của họ tạo men xúc tác, thúc đẩy kinh tế doanh nghiệp phát triển, và nền kinh tế sẽ mặc nhiên được lợi. Lúc ấy, các con số “50%” hay “50tỉ USD” (thu hút FPI tính theo phép tương đối hay tuyệt đối) sẽ chẳng là chuyện xa vời. Nguồn FPI lại không dừng ở vốn cổ phần, vì món khoái khẩu không kém của nhiều nhà đầu tư nước ngoài còn là trái phiếu. Trái phiếu (doanh nghiệp và nhà nước) là loại có lắm điều hay điểm lợi, nhưng ở ta lại chưa mấy được quan tâm (thời điểm đang được đề cập là cuối năm 2007).

Tuy con đường đến với nguồn FPI ngắn và đơn giản hơn FDI, các điều kiện hạ tầng để duy trì và điều hoà nguồn này không đơn giản. Về phía doanh nghiệp, việc hành xử đúng mực theo yêu cầu trung thực, minh bạch, công khai, sẽ là qui ước đeo bám. Về phía nhà nước, cần có chính sách rõ ràng, nhất quán và hiệu lực điều hành đồng bộ. Đối với nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư tài chính nói riêng, môi trường dù hấp dẫn mà không dự tính được là rủi ro. Nền kinh tế càng hội nhập sâu thì xa lộ FPI sẽ có chuyển động càng tốc độ. Làm thế nào để đón nhận nguồn vốn dồi dào nhưng hơi khó chịu này một cách hiệu quả và an toàn là gợi ý của một cổng thông minh tối ưu.    

 

 

Xem thêm bài viết