Bài 1
Đừng để bị ảo giác dắt đi
Thông tin Thép Tiến Lên (TLH) được phép dùng cổ phiếu quỹ để chia cổ tức đã được báo chí đặt thành vấn đề nghiêm túc. Tuy có chút bình phẩm và ít lúng túng về ‘hạch toán và điều chỉnh giá giao dịch’, hầu hết ý kiến phản hồi về cách làm này từ giới hữu trách, nhà điều hành và chuyên gia đều cho là được, chẳng vướng gì, thế giới họ cũng làm… Thậm chí có người khen đây là cách tốt để cổ đông lớn tích tụ sở hũu. Thật đáng tiếc…
Cổ phiếu quỹ là cái gì mà có thể đem chia? Nếu lý lẽ “công ty bỏ tiền ra mua cổ phiếu quỹ thì đó là tài sản của công ty” đã in sâu trong cách nghĩ nhiều người thì nay có lẽ cũng ít ai ngờ rằng suy nghĩ đó chỉ là ảo giác. Và việc ta “lấy tài sản đó để trả cổ tức cho cổ đông” nếu đang được cho là bình thường thì đó có thể lại là sự nhầm lẫn chết người. Nhầm lẫn vì ta tưởng cổ phiếu quỹ là cái gì ‘sờ’ được thì thực ra đó chỉ là hình, là bóng, là cái vỏ trống không, và đáng nói hơn cho dù có bút tích trong sổ sách nó hoàn toàn không phải là tài sản doanh nghiệp. Để làm rõ điều cốt tử này, thiết nghĩ ta cần lùi lại chút để biết thật chính xác cổ phiếu quỹ là gì và để làm gì, đặc điểm vận động của nó trong doanh nghiệp cổ phần ra sao, và cách người ta sử dụng và/hoặc xử lý nó thế nào.
Thế nhưng, điều cần ghi nhận trước tiên là hoạt động mua lại cổ phiếu của chính doanh nghiệp (buyback) nói chung, chứ không hẳn là cổ phiếu quỹ (treasury shares). Cổ phiếu quỹ chỉ là phần nổi của vấn đề. DN mua lại cổ phiếu của mình có thể sẽ có các quyết định khác nhau: Hủy ngay, giữ để bán lại (reissue) hoặc sẽ hủy một thời gian sau đó. Trường hợp cổ phiếu được mua lại và hủy ngay thì đó không phải là cổ phiếu quỹ. Tuy nhiên, kể cả khi không hủy ngay mà để làm cổ phiếu quỹ (hai cách sau), tất cả các giao dịch này đều làm cho vốn chủ sở hữu (shareholders’equity) giảm xuống. Cách đầu giảm vốn dứt khoát và vĩnh viễn, cách sau là giảm tạm thời. Nói khác đi, việc DN mua lại cổ phiếu đã phát hành của chính mình thực chất là việc hoàn vốn lại cho cổ đông, là chuộc lại và triệt tiêu một lượng cổ phần đã bán ra để giảm ‘nghĩa vụ’, là đưa một lượng cổ phần, tức vốn, về trạng thái ngủ (tùy cách hiểu). Việc này có thể thực hiện bằng hình thức chào mua bất kỳ trên thị trường (mua ngẫu nhiên) hoặc mua lại từ tất cả cổ đông theo một tỉ lệ.
Có một số lý do công ty mua lại cổ phiếu của chính mình. Đó có thể là do công ty dư tiền và tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng hiệu quả nên chọn cách dùng tiền đó để rút bớt số cổ phần đang lưu hành nhằm tăng giá trị thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS). Hoặc, công ty có tiền và tin rằng cổ phiếu của mình đang bị thị trường định thấp hơn giá tính toán nên việc mua lại sẽ vừa làm lợi cho cổ đông (giá trị cổ phần tăng) vừa có lợi cho DN nếu sau này bán lại với giá cao hơn giá vốn đã mua (nhưng lợi đó không phải là lợi nhuận). Tuy nhiên, nếu DN tính toán sai dẫn đến việc mua cao sau đó giá xuống thấp thì sẽ dễ là thiệt đơn hại kép – đây có thể lại là khoản lỗ thực cắn vào lợi nhuận. Chỗ này khá thú vị mà nếu có dịp tôi sẽ trở lại. Việc mua lại cũng có thể là để tái cấu trúc nguồn vốn của DN, và đây là cách làm chẳng còn lạ với DN tại các nước phát triển. Theo đó, với một thị trường vốn vay rẻ, DN có thể vay nợ và dùng nợ này để mua lại cổ phần của mình nhằm mục đích thay thế (để giảm bớt) nguồn vốn chủ sở hữu. Trường hợp này lượng cổ phiếu được mua lại sẽ bị hủy ngay lập tức, và như vậy không phát sinh cổ phiếu quỹ.
Rõ hơn, cổ phiếu quỹ là loại bị công ty thoái vốn nhưng được giữ lại để có điều kiện huy động về sau. Việc giữ lại này nôm na gọi là lưu kho, được xếp chung với các cổ phiếu được phép phát hành khác nhưng chưa phát hành (nếu có). Gọi lưu kho (treasury) chỉ là để phân biệt với việc hủy ngay, chứ thực tế cổ phiếu quỹ chính là loại được phép phát hành nhưng chưa phát hành, điều này có nghĩa nó chưa hiện thực (chưa phải là chứng khoán). Vả lại, cũng không loại trừ nó sẽ bị loại bỏ để giảm vốn vĩnh viễn nếu có một quyết định như vậy của ĐHĐCĐ. Vậy thì làm sao ta có thể lấy cái không có để mà chia cổ tức được?
Về tài chánh, theo cách hiểu và làm của thế giới, việc mua lại cổ phiếu quỹ sẽ làm giảm một khoản tiền mặt (cash) bằng với giá vốn đã bỏ ra, đồng thời vốn chủ sở hữu cũng sẽ bị giảm một khoản tương ứng. Để các nhà đầu tư hiểu đúng khoản giảm này là do mua lại cổ phiếu chứ không phải là khoản nợ hay lỗ, DN cần ghi nhận thật rõ trên bảng cân đối kế toán bút tích cổ phiếu quỹ một khoản âm (–) ở dưới mục vốn chủ sở hữu. Do bản chất của hoạt động mua lại cổ phiếu nói chung (stock repurchase) và mua cổ phiếu quỹ nói riêng chỉ có thể là việc giảm vốn (hay tái cơ cấu nguồn vốn), thế giới người ta không phân biệt nguồn tiền dùng để mua cổ phiếu quỹ là gì như quy định ở ta (là vốn thặng dư hay lợi nhuận giữ lại), thay vào đó cứ hễ mua lại cổ phiếu là ghi giảm tiền mặt (tiền nào không cần biết) đồng thời với giảm nguồn chủ sở hữu. Có lẽ ở ta nên lưu ý điểm này.
Mua cổ phiếu quỹ cũng không thể là cách làm tùy tiện. Luật lệ nhiều nước (và nhiều tiểu bang của Mỹ) đặt ra giới hạn lượng cổ phiếu một công ty được phép mua lại cùng với thời gian được nắm giữ. Vì ngoài ý nghĩa tích cực, người ta phòng ngừa việc tuồn nguồn lực (cụ thể là tiền) ra khỏi DN với ý đồ tiêu cực, gây nguy hại quyền lợi cổ đông nhỏ và các chủ nợ, là những đối tượng được luật pháp quan tâm bảo vệ. Ở Anh, hoạt động mua và giữ cổ phiếu quỹ bị cấm dài cho đến năm 1993 mới được phép.
Về “sáng kiến” chia cổ tức bằng cổ phiếu quỹ ở ta, trong nhiều lý lẽ được đưa ra có nội dung “chia bằng cổ phiếu quỹ hay bán cổ phiếu quỹ đi lấy tiền để chia thì cách nào cũng được”. Nếu đây được cho là chuyện bình thường và được nhân lên đại trà sẽ là điều đáng tiếc. Tại sao? Vì như đã nói ở trên, cổ phiếu quỹ là cái vỏ không (chưa hiện thực) thì DN lấy gì để trả? Còn nếu bán cổ phiếu quỹ lấy tiền để trả thì khác nào ta tự ‘cắn vào đuôi’ mình. Bởi, khi bán cổ phiếu thì khoản thu sẽ được đưa vào nguồn vốn chủ, vậy thì làm sao có thể lấy vốn huy động để trả cổ tức được?… Theo thông tin, có người còn cho cách chia cổ tức này cũng giống như việc “chia cổ tức bằng cổ phiếu bình thường nhưng có nguồn từ cổ phiếu quỹ và có thể đi tắt với các bút tích bù trừ cho đơn giản”. Nghe có vẻ nghiệp vụ nhưng thực ra là điều không tưởng, vì đã là cổ phiếu quỹ thì làm gì có “nguồn” để mà chia? Tóm lại, việc chia cổ tức bằng cổ phiếu quỹ là sự ngộ nhận rất đáng tiếc cần được ngăn chặn.
Có thể nói cổ phiếu quỹ là thứ vô giá trị (hiểu theo nghĩa vật chất) và có thể được ‘vứt đi’. Nếu cổ phiếu quỹ có là thứ gì đáng giữ lại thì đó là vì DN không có sẵn cổ phiếu được phép phát hành (authorized shares) và đây chỉ mới như điều thuận tiện cho DN. Trường hợp DN dùng cổ phiếu quỹ để thưởng cho nhân viên như ta thường thấy (theo các tiêu chí chiêu hiền đãi sĩ thay cho việc thưởng bằng tiền) thì đó chẳng qua là cách bán lại số cổ phiếu này với nguồn tài trợ từ lợi nhuận giữ lại. Tương tự là việc dùng cổ phiếu quỹ để chia cổ tức. Chia cổ tức bằng cổ phiếu quỹ nếu được cho là điều gì mới lạ thì việc này cũng chỉ có thể được thực hiện thông qua nguồn tài trợ là lợi nhuận giữ lại. Đây lại chẳng khác việc ta chia cổ tức bằng cổ phiếu theo cách đã quen thuộc, chẳng có gì phải bàn cãi nữa vì cổ phiếu quỹ lúc này đơn giản chỉ là loại cổ phiếu chưa phát hành. Còn nếu ta cho rằng cổ phiếu quỹ đã được “tạo ra” bằng nguồn lợi nhuận giữ lại nên được xem là tài sản thì đó chỉ là sự o ép sai lầm, là việc dấu trừ (–) đã bị để nhầm chỗ… Vậy, một lần nữa ta cần xác định việc mua cổ phiếu quỹ sẽ làm giảm tiền mặt và giảm nguồn vốn chủ sở hữu nói chung. Tiền đó đã bị rút ra khỏi DN và cổ phiếu quỹ kia chỉ có giá trị như một chữ ký nhận thôi. Chấm hết.
Doanh nghiệp cổ phần và thị trường chứng khoán sẽ rất khó phát triển trong điều kiện kém đồng bộ và không tương thích. Đây lại là những định chế du nhập, việc hiểu sâu biết đủ thôi đã mệt. Không nên có vội những sáng kiến xa lạ với các mắc xích khoa học.
Bài 2
Cổ phiếu quỹ có thể lợi bất cập hại…
Hạch toán Cổ phiếu Quỹ theo giá vốn
Tổng quát: Việc hạch toán kế toán đối với các giao dịch cổ phiếu quỹ, gồm giao dịch mua và các giao dịch tái phát hành (bán lại), được thực hiện theo hai phương thức: (1) hạch toán theo giá vốn và (2) hạch toán theo mệnh giá. Việc chọn áp dụng theo cách nào tùy thuộc vào quan niệm hay chủ trương của doanh nghiệp (DN).
Nếu ta cho việc mua lại cổ phiếu đã phát hành chỉ là cách giảm vốn chủ sở hữu tạm thời thì sử dụng phương thức hạch toán giá vốn. Còn nếu nghĩ rằng (dù sao) đó cũng đã là giao dịch giảm vốn cổ phần thì áp dụng cách hạch toán mệnh giá. Xin lưu ý vốn chủ sở hữu khác với vốn cổ phần hay vốn góp, do vốn chủ sở hữu gồm cả lợi nhuận giữ lại và các khoản dự trữ khác.
Cách đầu (hạch toán theo giá vốn) vốn cổ phần trên sổ sách được giữ nguyên cho đến khi DN có quyết định hủy bỏ. Cách sau (hạch toán theo mệnh giá) vốn cổ phần (gồm vốn theo mệnh giá và thặng dư vốn) được điều chỉnh giảm ngay theo “nguyên giá sổ sách” (giá phát hành đã được ghi nhận gồm mệnh giá và thặng dư), và sẽ được ghi nhận lại khi DN tái phát hành; phần chênh lệch giữa giá mua lại so với “nguyên giá sổ sách” sẽ được trừ trực tiếp vào lợi nhuận giữ lại (trường hợp bất lợi) hoặc được ghi nhận vào một tài khoản riêng (trường hợp có lợi). Cho dù hai phương thức sẽ cho kết quả như nhau, trong thực hành phương thức hạch toán giá vốn được sử dụng phổ biến.
Bài viết này sẽ trình bày trước phương thức hạch toán giá vốn. Phần hạch toán theo mệnh giá sẽ được trình bày trong một bài riêng.
Phương thức hạch toán giá vốn: Hạch toán theo giá vốn đối với hoạt động mua cổ phiếu quỹ là phương thức được sử dụng phổ biến do chính sự đơn giản của nó. Khi DN sử dụng phương thức giá vốn, việc mua cổ phiếu quỹ được xem là việc tạm thời giảm vốn chủ sở hữu. Lý do biện minh cho cách làm này là do DN có chủ ý rõ ràng là sẽ tái phát hành số cổ phiếu đã mua lại hơn là hủy chúng. Khi DN mua cổ phiếu quỹ, giá vốn số cổ phiếu này được đưa vào tài khoản đối ứng ‘cổ phiếu quỹ’ và làm giảm số dư vốn chủ sở hữu (bao gồm lợi nhuận giữ lại). Nhưng phương thức ghi chép này không làm giảm vốn cổ phần. Hãy xem ví dụ trích từ một bảng cân đối kế toán DN như sau:
Nguồn vốn chủ sở hữu |
|
Cổ phần phổ thông mệnh giá $1 |
$25.000 |
Thặng dư vốn góp (so với mệnh giá) |
$25.000 |
Lợi nhuận Giữ lại |
$15.283 |
Tổng nguồn vốn chủ sở hữu |
$65.283 |
Nếu DN mua lại 1.000 cổ phần với giá 5USD mỗi cổ phần, DN sẽ ghi bút tích nhật ký kế toán như sau:
Tài khoản |
Nợ |
Có |
Cổ phiếu Quỹ |
$5.000 |
– |
Tiền mặt |
– |
$5.000 |
Việc mua cổ phiếu quỹ làm giảm cả nguồn vốn chủ sở hữu lẫn tài sản thuần (net assets, ở đây là tiền mặt). Việc ghi nợ ở tài khoản đối ứng “Cổ phiếu Quỹ” làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu, và số dư tài khoản tiền mặt của DN cũng giảm một khoản tương ứng. Phương thức hạch toán này tác động đến bảng cân đối kế toán như sau:
Nguồn vốn chủ sở hữu |
|
Cổ phần phổ thông mệnh giá $1 Trong đó cổ phiếu quỹ: 1.000 cổ phần |
$25.000 |
Thặng dư vốn cổ phần |
$25.000 |
Lợi nhuận Giữ lại ($5.000 bị hạn chế do giữ CPQ) |
$15.283 |
Trừ: Giá vốn của 1.000 cổ phiếu quỹ |
($5.000) |
Tổng cộng nguồn vốn chủ sở hữu |
$60.283 |
Mục nguồn vốn chủ sở hữu đã bị giảm đi 5.000USD. Các tài khoản vốn góp được giữ nguyên như báo cáo ban đầu, do phương thức hạch toán giá vốn xem việc mua cổ phiếu quỹ chỉ là việc giảm vốn chủ sở hữu tạm thời.
Trong ví dụ này, DN đã phát hành 25.000 cổ phần. Số cổ phần được rút ra khỏi thị trường là 1.000 tuy có làm giảm số cổ phiếu đang lưu hành (outstanding) nhưng lượng cổ phiếu trên sổ sách không thay đổi, chỉ có một phần trong đó chuyển sang dạng cổ phiếu quỹ.
Nhiều nước có quy định việc phân phối lợi nhuận hoặc trả cổ tức chỉ được thực hiện trong khoản lợi nhuận còn lại sau khi đã trừ đi giá vốn cổ phiếu quỹ đang nắm giữ. Do vậy mà GAAP (nguyên tắc hạch toán được thừa nhận) yêu cầu phải công khai điều này bằng một ghi chú hay để trong ngoặc (như trên) trên bảng cân đối kế toán khoản tiền mua cổ phiếu quỹ làm hạn chế nguồn lợi nhuận giữ lại. Tóm lại, DN chỉ có thể trả cổ tức từ khoản lợi nhuận giữ lại khả dụng, là khoản sau khi đã giảm trừ giá vốn mua cổ phiếu quỹ, cụ thể trường hợp này là 10,283USD (15.283USD – 5.000USD). Thuật ngữ gọi khoản không được phép phân phối cho cổ đông này là “legal capital”.
Khi tái phát hành, tài khoản cổ phiếu quỹ được ghi có giá vốn số cổ phần được tái phát hành. Nếu cổ phiếu quỹ được bán lại giá cao hơn giá vốn thì DN ghi có vào một tài khoản “thặng dư vốn từ cổ phiếu quỹ” được lập riêng. Trường hợp cổ phiếu được bán lại có giá thấp hơn giá vốn đã mua, khoản chênh lệch thấp hơn này trước tiên được giảm trừ vào tài khoản thặng dư vốn từ cổ phiếu quỹ (nếu có), nếu tài khoản thặng dư này không đủ để giảm trừ, thì số còn lại sẽ được trừ vào lợi nhuận giữ lại (xem các bảng dưới)
Các giao dịch cổ phiếu quỹ chỉ có thể làm “giảm” lợi nhuận giữ lại. DN không thể tạo ra lợi nhuận thông qua việc mua hay bán lại cổ phiếu của chính mình. Đây là nguyên tắc cơ bản về giao dịch cổ phiếu quỹ. Các giao dịch cổ phiếu quỹ chỉ có thể làm tăng hay giám vốn góp của cổ đông và làm giảm lợi nhuận giữ lại, nhưng sẽ không có điều ngược lại, vì khi DN bán lại cổ phiếu quỹ thì nguồn thu sẽ được đưa vào “vốn cổ đông”.
Nếu DN tái phát hành 200 cổ phần trong số cổ phiếu quỹ với giá 7USD mỗi cổ phần, thì nhật ký kế toán DN sẽ được ghi nhận như sau:
Tài khoản |
Nợ |
Có |
Tiền mặt |
$1.400 |
– |
Cổ phiếu Quỹ (200 x $5) |
– |
$1.000 |
Thặng dư vốn góp từ giao dịch cổ phiếu quỹ |
– |
$400 |
Sau khi bán lại 200 cổ phiếu quỹ với giá 7USD/cp, phần vốn góp của DN đã nhận về là 1.000USD (giá vốn 200cp) và thặng dư vốn 400USD (là khoản “lợi”) từ giao dịch này.
Nếu DN tiếp tục tái phát hành 300 cổ phần trong số 800 cổ phiếu quỹ còn lại với giá 3USD/cổ phần, thì nhật ký kế toán ghi nhận:
Tài khoản |
Nợ |
Có |
Tiền mặt |
$900 |
– |
Thặng dư vốn góp từ giao dịch cổ phiếu quỹ |
$400 |
– |
Lợi nhuận Giữ lại |
$200 |
– |
Cổ phiếu Quỹ (300 x $5) |
– |
$1.500 |
Ta lưu ý, khoản “lỗ” của đợt phát hành 300 cổ phiếu quỹ lần này là 600USD (chênh lệch giữa giá bán 3USD/cp và giá vốn 5USD/cp). Khoản lỗ này chẳng những làm biến mất khoản lợi vốn (capital gain) được ghi nhận trước đó ở tài khoản ‘thặng dư vốn từ việc bán cổ phiếu quỹ’ (400USD), mà còn ăn thâm vào nguồn lợi nhuận giữ lại 200USD cho đủ 600USD.
Sau các giao dịch trên đây, mục vốn chủ sở hữu của bảng tổng kết kế toán của DN xuất hiện như sau:
Nguồn vốn chủ sở hữu |
|
Cổ phần phổ thông mệnh giá $1 Trong đó cổ phiếu quỹ: 500 cổ phần |
$25.000 |
Thặng dư vốn góp |
$25.000 |
Lợi nhuận Giữ lại ($2.500 bị hạn chế cho việc nắm giữ cổ phiếu quỹ) |
$15.083 |
Trừ: Giá vốn của 500 cổ phiếu quỹ |
($2.500) |
Tổng nguồn vốn chủ sở hữu |
$62.583 |
Sai hai lần tái phát hành, tổng nguồn vốn chủ sở hữu lúc này tăng lại 2.300USD, đây là khoản thu về từ việc bán lại “200 + 300” cổ phiếu quỹ (giá vốn 2.500USD trừ khoản lỗ ăn vào lợi nhuận giữ lại 200USD trong lần bán 300 cổ phiếu với giá đơn vị 3USD). Số cổ phiếu quỹ nay còn lại là 500 với giá vốn là 2.500USD (500 x 5USD).
Do lợi nhuận giữ lại không được tăng trong các giao dịch cổ phiếu quỹ, DN chỉ có thể ghi khoản tăng “lợi tăng vốn” ở tài khoản vốn góp. Trong khi đó, khi một khoản “lỗ” phát sinh từ các giao dịch này, khoản lỗ trước tiên được cấn vào tài khoản vốn góp (thặng dư vốn từ giao dịch cổ phiếu quỹ), nếu không đủ thì sẽ được xử bằng lợi nhuận giữ lại.
Nếu sau đó DN chính thức hủy bỏ vĩnh viễn 500 cổ phiếu quỹ còn lại thì nhật ký kế toán của DN sẽ ghi nhận như sau:
Tài khoản |
Nợ |
Có |
Cổ phần phổ thông |
$500 |
– |
Thặng dư vốn góp cổ phần phổ thông |
$500 |
– |
Lợi nhuận Giữ lại |
$1.500 |
– |
Cổ phiếu Quỹ (500 x $5) |
– |
$2.500 |
500 cổ phiếu phổ thông được hủy bỏ làm giảm vốn góp theo mệnh giá 500USD và thặng dư vốn 500USD (ghi nợ) dựa trên giá trị sổ sách ban đầu, phần chênh lệch 1.500USD do mua cao hơn giá sổ sách xem như “lỗ”, được trừ vào (ghi nợ) tài khoản lợi nhuận giữ lại. Cổ phiếu quỹ được ghi có giá vốn 2.500USD để thanh lý tài khoản nay. Lúc này trên bảng tổng kết tài sản, vốn theo mệnh giá sẽ là 24.500USD, thặng dư vốn là 24.500USD, lợi nhuận giữ lại 13.583USD, và tổng nguồn vốn chủ sở hữu là 62.583USD
Cách hạch toán ở đây cho thấy, việc mua cổ phiếu quỹ cao hơn giá phát hành theo sổ sách và bán lại thấp hơn giá đó dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc hủy bỏ hẳn, sẽ làm giảm (gây thiệt hại) khoản lợi nhuận giữ lại. Đây là nguyên tắc cơ bản nhằm bảo đảm sự chặt chẽ về mặt sổ sách và cũng là điều mà DN cần cân nhắc khi giao dịch cổ phiếu quỹ.
Bài 3
Cổ phiếu quỹ có thể lợi bất cập hại…
Hạch toán Cổ phiếu Quỹ: Theo mệnh giá
Phương pháp hạch toán Mệnh giá
Trong phần “phương thức hạch toán giá vốn”, ta đã biết cách hạch toán giá vốn xem việc mua cổ phiếu quỹ là giao dịch tạm thời giảm vốn chủ sở hữu, và việc mua lại lại này được ghi nhận vào một tài khoản đối ứng với tài khoản vốn chủ sở hữu (tài khoản Cổ phiếu Quỹ) để giảm nguồn vốn chủ sở hữu. Đây là cách khá đơn giản và được các nước đi trước sử dụng phổ biến (xin xem bài phương pháp hạch toán giá vốn)
Với phương thức hạch toán mệnh giá ta sẽ thấy cách nhìn vấn đề khác hẳn. Theo đó cổ phiếu quỹ “bị” xem là sẽ được hủy ngay sau giao dịch mua lại. Nguyên tắc chung của cách hạch toán mệnh giá là việc nó tác động trực tiếp đến vốn góp cổ phần, làm giảm ngay vốn mệnh giá (tức cổ phần) và thặng dư vốn trên sổ sách. Và nếu giá mua lại cao hơn nguyên giá sổ sách thì khoản chênh lệch “bất lợi” này sẽ được trừ ngay vào tài khoản lợi nhuận giữ lại.
Cách hạch toán mệnh giá được tiến hành bằng bút tích ghi nợ tài khoản Cổ phiếu Quỹ khoản mệnh giá, ghi nợ tài khoản thặng dư vốn khoản chênh lệch giữa nguyên giá và mệnh giá, và ghi có tài khoản tiền mặt.
Để minh họa, ta lấy ví dụ giống như trường hợp hạch toán giá vốn để tiện so sánh. DN cổ phần có nguồn vốn chủ sở hữu trong bảng tổng kết kế toán như sau:
Nguồn vốn chủ sở hữu |
|
Cổ phần phổ thông mệnh giá $1 |
$25.000 |
Thặng dư vốn cổ phần (so với mệnh giá) |
$25.000 |
Lợi nhuận Giữ lại |
$15.283 |
Tổng nguồn chủ sở hữu |
$65.283 |
Nguyên giá cổ phiếu theo sổ sách trong ví dụ này là 2USD/cổ phần (mệnh giá 1USD, thặng dư vốn 1USD). Nếu DN mua lại 1.000 cổ phần phổ thông đã phát hành với giá $5 một cổ phần (cao hơn nguyên giá 3USD/cổ phần) thì DN sẽ thực hiện bút tích nhật ký kế toán như sau:
Tài khoản |
Nợ |
Có |
Cổ phiếu Quỹ |
$1.000 |
– |
Thặng dư vốn cổ phần |
$1.000 |
– |
Lợi nhuận Giữ lại ($3 x 1,000 cổ phần) |
$3.000 |
– |
Tiền mặt |
– |
$5.000 |
Cổ phiếu quỹ được ghi nhận đúng với giá trị mệnh giá ban đầu (chưa tách/gộp) là 1.000USD, tài khoản thặng dư vốn cổ phần được ghi nợ 1.000USD theo nguyên giá sổ sách. Đồng thời, DN cũng ghi nợ vào tài khoản Lợi nhuận Giữ lại khoản 3.000USD chênh lệch giữa giá mua lại và nguyên giá sổ sách (5.000USD – 2.000USD). Về nguyên lý, khoản ghi nợ vào tài khoản Lợi nhuận Giữ lại này (3.000USD) được xem như phần “cổ tức” phân bổ ngay cho những cổ đông (cho lượng cổ phần) đã rút ra khỏi DN. Trong khi khoản tiền theo mệnh giá ghi nhận ở tài khoản Cổ phiếu Quỹ thể hiện sự rút bớt số cổ phiếu đang lưu hành (ở đây là 1.000 cổ phần).
Hiệu lực của phương thức hạch toán theo mệnh giá về cổ phiếu quỹ trên bảng tổng kết kế toán như sau:
Nguồn vốn chủ sở hữu |
|
Cổ phần phổ thông mệnh giá $1 Trong đó có 1.000 cp là Cổ phiếu Quỹ |
$24.000 |
Thặng dư vốn cổ phần (so với mệnh giá) |
$24.000 |
Lợi nhuận Giữ lại |
$12.283 |
Tổng nguồn chủ sở hữu |
$60.283 |
Mục tổng nguồn vốn chủ sở hữu đã giảm đi 5.000USD (vốn mệnh giá giảm $1.000, thặng dư vốn giảm $1.000, lợi nhuận giữ lại giảm $3.000) và còn lại 60.283USD. Điều này cho thấy, mặc dù có sự khác biệt về chi tiết hạch toán nhưng nếu so với phương pháp hạch toán giá vốn thì đến đây cả hai đều cho kết quả như nhau. Vậy có thể nói, về mặt tài chánh, tuy chi tiết về đường đi nước bước có khác nhau cả hai phương pháp đều có cùng đích đến là giảm tiền mặt và giảm nguồn vốn chủ sở hữu.
Về hạch toán, phương pháp mệnh giá làm giảm các tài khoản vốn chủ sở hữu một cách trực tiếp ngay sau giao dịch, mặc dù trong thực tế ‘cổ phiếu quỹ’ vẫn được duy trì cho đến khi thực sự bị hủy bỏ. Trong khi đó, phương pháp hạch toán giá vốn thì chỉ tạm thời làm giảm vốn chủ sở hữu thông qua một tài khoản đối ứng (với tài khoản vốn chủ) và được liệt kê riêng trên bảng cân đối kế toán. Việc giảm vốn tạm thời thông qua tài khoản đối ứng này sẽ được loại trừ khi nào DN bán lại hoặc hủy hết số cổ phiếu quỹ đã mua.
Giả định DN tái phát hành (bán lại) 200 cổ phần (trong số cổ phiếu quỹ đã mua) với giá 7USD mỗi cổ phần (bán cao hơn giá vốn 2USD)
Khi DN tái phát hành cổ phiếu quỹ, DN sẽ ghi nợ khoản tiền nhận được vào tài khoản tiền mặt, ghi có vào tài khoản Cổ phiếu Quỹ khoản mệnh giá ban đầu, ghi có vào tài khoản thặng dư vốn khoản thu cao hơn mệnh giá ban đầu (đối với số cổ phần đã tái phát hành). Giao dịch này rất giống việc phát hành cổ phiếu bình thường, chỉ khác là giao dịch ở đây là phần tính riêng cho các cổ phiếu quỹ. Nhật ký kế toán lúc này sẽ được ghi nhận như sau:
Tài khoản |
Nợ |
Có |
Tiền mặt |
$1.400 |
– |
Cổ phiếu Quỹ (200 x $1) |
– |
$200 |
Thặng dư vốn cổ phần (CPQ) |
– |
$1.200 |
Nếu DN tiếp tục bán lại 300 cổ phần với giá 3USD/cổ phần (bán lỗ so với giá vốn 2USD) thì nhật ký kế toán sẽ ghi nhận:
Tài khoản |
Nợ |
Có |
Tiền mặt |
$900 |
– |
Cổ phiếu Quỹ (300 x $1) |
– |
$300 |
Thặng dư vốn cổ phần (phổ thông) |
– |
$600 |
Sau giao dịch trên, mục vốn chủ sở hữu trên bảng tổng kết kế toán của DN sẽ được thông tin như sau:
Nguồn vốn chủ sở hữu |
|
Cổ phần phổ thông mệnh giá $1 Trong đó có 500 cp là Cổ phiếu Quỹ |
$24,500 |
Thặng dư vốn cổ phần |
$25,800 |
Lợi nhuận Giữ lại (2.500USD bị chốt giữ cho giá vốn CPQ) |
$12,283 |
Tổng nguồn vố chủ sở hữu |
$62,583 |
Vốn theo mệnh giá tăng lại 500USD ($200 + $300), thặng dư vốn tăng 1.800USD ($1.200 + $600). Nhưng điều cần lưu ý là lợi nhuận giữ lại dù bị trích trừ trước đây không tăng lại, do tiền thu về từ việc tái phát hành cổ phiếu quỹ chỉ làm tăng vốn góp.
Giá trị tổng nguồn vốn chủ sở hữu đến đây bằng đúng với khoản này khi ta dùng phương thức giá vốn. Sự khác biệt của phương thức chủ yếu là việc cổ phiếu quỹ làm giảm trực tiếp giá trị mệnh giá lượng cổ phiếu nguyên thủy. Và điều này nhất quán với quan điểm việc mua cổ phiếu quỹ thực hiện theo phương thức mệnh giá được xem như việc hủy bỏ số cổ phần đó. Ở đây, do DN mua lại 1.000 cổ phần và tái phát hành 500 cổ phần, giao dịch này thực tế đã làm giảm giá trị mệnh giá cổ phần phổ thông là 500USD, giảm thặng dư vốn nguyên thủy 500USD, và bất cứ khoản nào lớn hơn mệnh giá khi tái phát hành (bán lại) sẽ làm tăng thặng dư vốn (trường hợp này là 1.800USD).
Cuối cùng, nếu DN chính thức quyết định hủy 500 cổ phiếu quỹ còn lại thì bút toán ghi nhận trong nhật ký kế toán sẽ như sau:
Tài khoản |
Nợ |
Có |
Cổ phần phổ thông |
$500 |
– |
Cổ phiếu Quỹ |
– |
$500 |
DN ghi có Cổ phiếu Quỹ để loại bỏ số dư để đóng tài khoản này. Khoản 500USD vốn theo mệnh giá cổ phần phổ thông trong bảng tổng kết kế toán lúc này được xem là đã giảm vĩnh viễn (số dư cuối cùng là 24.500USD). Điểm đáng ghi nhận của phương thức hạch toán mệnh giá là việc nó cho cái nhìn rõ số cổ phiếu bị loại ra khỏi “cuộc chơi” (lượng thực sự lưu hành), và đây là điều mà ở phương thức giá vốn ta khó thấy.
Tóm lại, việc hạch toán cổ phiếu quỹ cần được thực hiện hoặc theo giá vốn hoặc theo mệnh giá. Nếu có một cách làm khác đi hai cách chính thống đã được trình bày thì đó không thể được xem là giao dịch cổ phiếu quỹ theo đúng bản chất nghiệp vụ chứng khoán, và đây là chỗ rất cần luật để mắt. Yêu cầu mạch lạc thể hiện trong hạch toán theo cách thế giới như vậy giúp hạn chế cách hiểu diễn dịch, cách làm áng chừng, là cơ sở cho hiệu lực quản lý tốt hơn. Và thị trường sẽ nhận được thêm niềm tin nhờ có sự minh bạch.