Sau khi Mỹ có thêm đợt “nới lỏng định lượng 3” (QE3) vào tháng 9-2012, một số ý kiến trong nước cho rằng Việt Nam nên chủ động giảm giá trị tiền đồng, cụ thể nên phá giá nhẹ vài phần trăm để hỗ trợ cho hoạt động xuất cảng. Ta hãy xem một quyết định như vậy có là điều tốt hay sẽ bất lợi trong bối cảnh kinh tế đan xen trong nước như hiện nay (thời điểm 2012)…
Bất lợi được nhắc tới nhiều là (và thường chỉ là) gánh nặng nợ ngoại tệ sẽ tăng lên. Theo đó, việc Đồng Việt Nam (VNĐ) giảm giá sẽ đồng nghĩa với việc đô-la Mỹ (USD) đắt lên. Nghĩa vụ trả nợ tính bằng VNĐ do đó sẽ tăng lên. Hệ quả từ nỗ lực bù đắp cho khoản tiền VNĐ tăng lên này sẽ không là chuyện riêng của một con nợ ngoại tệ nào, mà là gánh nặng cho xã hội. Chỉ một biến động nhỏ tỷ giá trong tuần đầu tháng 10-2012 (USD tăng 40 VNĐ, khoảng 0.20%) cũng đủ làm cho nỗi lo của nhiều người, nhiều tổ chức nóng lên. Giả định nay ta chủ động phá giá 2% (khoảng 417 đồng 1USD) thì chưa biết tình thế sẽ thế nào…
Tại Việt Nam, do VNĐ được gắn chặt (nếu không muốn nói là được neo) vào USD nên về lý thuyết khi USD mất giá thì VNĐ cũng mất giá theo (chứ không tăng giá tương đối như các đồng tiền mạnh khác). Do vậy, xét về mặt hối đoái, có thể nói lãnh vực xuất cảng của Việt Nam không bị ảnh hưởng xấu do thay đổi tỉ giá bất lợi. Ngược lại nếu xuất đi các nước có đồng tiền tăng giá tương đối so với đồng tiền Mỹ, mà đồng tiền thanh toán theo hợp đồng là USD, thì sẽ có lợi hơn (hàng Việt Nam có giá cạnh tranh hơn). Ví dụ, một cái áo xuất đi Nhật giá 4 USD, lúc USD-JPY là 80 người Nhật phải mua 320 JPY, nay USD-JPY còn 78 thì họ chỉ tốn có 312 JPY (*).
Từ một góc nhìn chi li hơn, bản thân việc VNĐ không tăng trước sự mất giá của USD cũng đã là một thiệt hại tương đối cho tình trạng nợ ngoại tệ của Việt Nam. Cụ thể, ta không được bù khoản thiệt từ giá trị giảm xuống của đồng tiền Mỹ như các nước khác. Lấy tỉ giá USD-JPY dẫn ở đoạn trên, nếu trước đây Mỹ nợ Nhật 80 JPY tương ứng với 1 USD thì nay (khi 1 USD chỉ mua được 78 JPY) Mỹ phải trả Nhật hơn 1 USD cho món nợ 80 JPY. Ngược lại, nếu trước đây Nhật nợ Mỹ 1 USD tương ứng với 80 JPY thì nay Nhật chỉ cần 78 JPY để trả cho Mỹ. Trường hợp Việt Nam, do giá VNĐ không tăng, ta đã không có được sự bù đắp tương tự. Nếu nay ta lại phá giá đồng tiền của mình thiếu cân nhắc thì, về mặt công nợ, đó không còn là sự thiệt đơn mà sẽ là hại kép…
Việc đồng nội tệ bất ổn, bị giảm giá thường xuyên, sẽ còn ảnh hưởng bất lợi đến việc thu hút dòng tiền du nhập nói chung (inflow). Đối với đầu tư trực tiếp, việc tính toán hơn thiệt của nhà đầu tư là dài hơi, và nhu cầu tái tạo ngoại tệ có thể gặp rủi ro nếu như đồng Việt Nam bị giảm giá trị nhiều và liên tục. Ngay như những nhà đầu tư tài chánh ngắn hạn họ cũng cân nhắc, bởi các rủi ro về tỉ giá có thể làm họ bị lỗ ngay sau khi giải ngân. Điều này đã khó hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài đưa tiền vào thị trường tài chánh ở ta nói chung, lại càng khó động viên họ đậu lại lâu trên thị trường chứng khoán. Đầu tư nước ngoài vào lãnh vực trái phiếu có mệnh giá nội tệ (vốn là loại được ưa chuộng) ở cả khu vực nhà nước và doanh nghiệp cũng sẽ bỉ ảnh hưởng, kể cả hoạt động đầu tư tận dụng chênh lệch lãi suất (carry trade).
Đồng nội tệ mất giá còn làm cho tài sản trong nước mất giá, đặc biệt là giá trị tài sản doanh nghiệp. Bất lợi này tuy ẩn khuất nhưng không khó thấy qua các hoạt động sáp nhập và thâu tóm (M&A) xuyên biên giới. Hoạt động kinh tế này trong năm năm trở lại đây diễn ra ngày một nhộn nhịp với giá trị các thương vụ tăng lên đáng kể. Tuy là hoạt động bình thường, có tính quy luật và được chào đón khá vô tư, nhưng lại chưa có một phân tích đánh giá hơn thiệt nào để thẩm định những tác động (tác dụng và tác hại) sau các thương vụ đình đám…
Ngoài ra, tâm lý trú ẩn vào USD và các tài sản khác do lo ngại đồng tiền mất giá sẽ làm cho vấn đề thêm sâu sắc, gây khó hiệu lực điều hành tạo lập kỹ cương cho tiền đồng.
Giảm giá đồng nội tệ để khuyến khích xuất cảng là bài bản quen thuộc. Tuy nhiên, lý thuyết kinh tế này rất cần có sự đắn đo trong thực tế vận dụng. Điều gì Trung Quốc hay nhiều nước khác làm được không phải lúc nào cũng là kinh nghiệm phù hợp với Việt Nam. Tại sao? Họ xuất siêu, ta nhập siêu. Họ chủ nợ ngoại tệ, ta con nợ ngoại tệ. Nhưng, cho dù việc giảm giá nội tệ để khuyến khích hoạt động xuất cảng có làm cho kim ngạch xuất cảng của Việt Nam tăng lên, thì về phương diện hiệu quả tài chánh (hiệu quả cuối cùng của nền kinh tế) cũng chưa chắc có lợi. Đặc biệt là trong các ngành hàng gia công như may mặc, túi xách, da giày, điện tử… có tỉ trọng nguyên phụ liệu hoặc linh kiện phụ trợ phải nhập cảng cao. Mặt khác, nhiều mặt hàng nông sản và khoáng sản ta càng xuất nhiều lại càng có thể là “bất lợi”, là tăng kim ngạch nhưng lỗ sản lượng, lỗ thặng dư do không qua chế biến, lỗ tài nguyên…
Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) hoạt động lắp ráp và xuất cảng cũng hoặc nhập linh kiện hoặc sử dụng linh kiện của các doanh nghiệp FDI khác trong nước. Tỉ trọng ‘nhập trong, nhập ngoài’ này thường là từ 60% đến gần 100% (tham khảo Các nhà sản xuất Nhật không tìm được nhà cung ứng trong nước, Quốc Hùng, The Saigon Times Daily, 8-10-2012). Hơn nữa, tỉ trọng kim ngạch xuất cảng hiện nay của Việt Nam lại đang nghiêng hẳn về khu vực kinh tế FDI. Cụ thể, chín tháng đầu năm 2012, khu vực FDI chiếm tới 62,6% tổng kim ngạch xuất cảng (xem Nếu không có khu vực FDI, Nguyễn Vạn Phú, TBKTSG 4-10-2012). Tình trạng xuất cảng “ốc mượn hồn” này cần được phân tích đầy đủ để có rút tỉa cho nền kinh tế. Đáng nói, mục tiêu chiến lược đầu tư và toan tính về hiệu quả từ xuất cảng của khu vực FDI thường không như doanh nghiệp trong nước, không giống với mong đợi của ta. Như vậy, điều gì ta mong đợi ở việc giảm giá đồng nội tệ để khuyến khích xuất cảng chưa chắc trúng.
Chưa nói, những đồng ngoại tệ chắt chiu nếu chỉ đơn giản là từ lao động gia công, được gom góp từ hạt gạo, tấn quặng, tấn than (làm khô cạn tài nguyên) chỉ để thỏa mãn cái trước mắt lại có thể sẽ là sự trả giá kinh tế thay vì phát triển. Yêu cầu chú trọng kinh tế nội địa, ưu tiên cho lãnh vực kỹ thuật công nghiệp, trong nhiều khuyến cáo gần đây không chỉ có ý nghĩa để ứng phó với tình trạng ảm đạm của kinh tế thế giới, mà quan trọng hơn còn là để gia cố tư thế kinh tế nước nhà.
(*) Ngoại trừ trường hợp Nhật chủ động phá giá đồng Yen như thời gian đầu năm 2013. Trước đó đồng Yen và nhiều đồng tiền mạnh khác đã lên giá tương đối so với đồng USD.