CÁC CHU KỲ KINH TẾ CỦA CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

Đăng ngày

Chia sẻ:

–           Thời kỳ tăng trưởng.

–           Thời kỳ tăng trưởng tột đỉnh.

–           Thời kỳ suy thoái.

–           Giai đoạn cầm cự.

Đng trước một cuộc khủng hoảng, người ta có thể đưa ra rất nhiều nghiên cứu, biên khảo rút tỉa có giá trị để mà nghiền ngẫm. Nhưng đồng thời cũng có thể có nhiều nhận định làm rối người theo dõi.

Có lúc, nhiều bài viết, cả của trong và ngoài nước, phân tích quá sâu vào các “biểu hiện lâm sàn”, phê phán và thậm chí quy kết các phản ứng thời cơ, hoặc những diễn biến có tính hậu quả, làm cho người đọc ngờ ngợ về thủ phạm gây ra khủng hoảng. Một số đề tài trong đó lại thu hút rất nhiều người tham luận.

Các “bị can” bị lên án nhiều nhất đó là ngân hàng, bất động sản, mua bán tiền tệ, thị trường chứng khoán, các cơ chế liên quốc gia,… có bài chỉ trích các hoạt động trên thẳng tay và rất nặng nề, cả việc đòi xét lại… Có bài nêu một vài khái quát, hiện tượng hoặc con số mà mới đọc qua là muốn đem xử liền! Những “thước phim giựt gân” đó có thể làm cho ta thấy ớn, mơ hồ, mất bình tĩnh và dễ chao đảo. Tuy nhiên điều đáng nói là: một số trích dẫn cô đọng đó chưa chính xác. Bên cạnh đó có trích dẫn nêu lên rồi bỏ lửng hoặc được gán ép bằng một tính từ có tính kết luận như “vô lý”, “nguy hiểm” hoặc “đe dọa”…

Đặc biệt có nhiều bình phẩm đã diễn đạt hoặc đưa thông tin theo cảm nhận riêng, dễ gây dư luận lạc hướng. Chẳng hạn, hoạt động bán hợp đồng tiền tệ (short hedge) trong thị trường hợp đồng futures mà gọi là hoạt động “bán khống” có thể gây oan nghiệt cho nghiệp vụ short sale trong thị trường chứng khoán (TTCK). Bởi vì hai hoạt động này có kỹ thuật độc lập, phức tạp và hoàn toàn không “bà con” gì với nhau cả. Điều kiện sân bãi và “cách chơi” cũng khác nhau xa lắc.

Thêm nữa, nhiều biểu hiện tự vệ của thị trường do hệ quả đương nhiên và “phi soros”, na ná như kỹ thuật “hedge” trong thị trường futures, rất thường thấy trong thời buổi lạm phát , ví dụ mua giữ đồng tiền mạnh, lại bị quy kết là “hoạt động đầu cơ” của dạng hợp đồng futures. Nên biết rằng không phải ở đâu cũng có thị trường futures (futures market) để mà chơi!.

Một dẫn chứng khác có tính “phê phán” TTCK đăng trên một tờ báo nọ có nêu giá cổ phiếu của một công ty bất động sản lớn nhất tại Singapore từ 1985 đến 1997 tăng gấp 10 lần và cho đó là chuyện không tưởng tượng được. Tăng như vậy thật ra đâu có cao. Bởi vì từ $1,5 vốn gốc mà tăng lên $15 trong vòng gần 13 năm, theo phép tính lãi kép, lấy thời đoạn là một năm, thì mỗi năm giá trị gia tăng chỉ có < 20%. Bình thường trong thời gian đó, giới đầu tư phương Tây mà người viết có dịp tiếp xúc đã xác định tỷ suất nội hoàn (IRR) trong hoạt động đầu tư vào khu vực phải trên 25% mới hấp dẫn!.

Khủng hoảng có thể bùng lên từ nhiều lý do kinh tế tài chánh khác nhau. Nó cũng có thể bắt nguồn từ sự bất cẩn, bất lực và lây lan theo kiểu cháy nhà. Nhưng cốt lõi thường là do “cái móng” có vấn đề. Những thứ đó thuộc về cơ cấu, do người sử dụng công cụ mắc lỗi lầm… Kể cả suy thoái theo chu kỳ cũng vậy. Ta thử khảo sát một chu kỳ hoạt động kinh tế (bussiness cycle) để rõ vấn đề hơn.

Bắt đầu là thời kỳ phát triển (expansion), hoạt động kinh doanh lớn mạnh, sản xuất và tiêu thụ đều tăng, kể cả yếu tố nhân dụng cũng tích cực. Các doanh nghiệp và người tiêu dùng đều cần tiền để đáp ứng nhu cầu gia tăng. Điều này làm cho lãi suất tiền vay tăng – có thể liên hệ yếu tố lãi suất tăng này với yếu tố tỷ giá tăng.

Khi phát triển đã leo đến cực đỉnh (peak), cung bị “oải” nhưng cầu còn rất hăng, cầu sẽ vượt cung và do đó giá sẽ tăng. Đây là biểu hiện tạo ra lạm phát. Lượng tiền tăng do lạm phát này lại đuổi bắt lượng hàng hóa không thỏa mãn kịp và theo lẽ tự nhiên giá sẽ tăng nữa. Giá tăng đến một mức nào đó lại làm cho sức mua giảm. (Nếu xét trong lĩnh vực tài chánh tiền tệ, cung cầu hàng hóa sẽ được thay bằng cung cầu ngoại tệ và diễn biến sẽ rất phức tạp).

Biểu hiện nguy hại của lượng cầu sụt giảm nhanh là do người ta dè xẻn trong tiêu dùng. Trong khi đó, tổng công suất sản xuất đã được nền kinh tế đầu tư để đáp ứng lượng cầu trong thời cực đỉnh vẫn tiếp tục cho ra một lượng cung dồi dào. Nay cầu tụt mạnh làm cho hàng hóa ế ẩm, sản xuất bị đình trệ, không hiệu quả, vì không thể tiêu thụ. Nền kinh tế lúc đó bị đẩy sang thời kỳ suy thoái (recession hay còn gọi là contraction: thu hẹp).

Hậu quả đưa đến việc thu hẹp hoạt động kinh doanh và tình trạng thất nghiệp gia tăng, lượng cầu lúc này tiếp tục giảm mạnh. Như là một quy luật, giá lúc đó sẽ giảm mạnh và tạo ra giảm phát – dội hàng (deflation). Hoạt động kinh tế bước vào giai đoạn cầm cự (trough). Tuy nhiên khi giá giảm đến một mức nào đó nó lại hấp dẫn và kích thích cầu. Điều này tạo khả năng “hồi phục” (recovery) cho nền kinh tế. Đó chính là sự quay trở lại giai đoạn phát triển.

Chúng ta lưu ý ở giai đoạn cực đỉnh bắt đầu xuất hiện một cơ cấu “có vấn đề”. Cũng như thời kỳ cực thịnh của các “đại gia đình” đã thấp thoáng nguy cơ “con cái” hư. Thay vì hàng hóa ta thay yếu tố nợ nước ngoài, với áp lực tỷ giá ngoại tệ, vào giai đoạn này thì đáp số tình thế còn xấu hơn nữa,… Suy thoái theo chu kỳ hoạt động kinh tế thường kéo dài từ  6 tháng đến 18 tháng – thời gian này cho phép các thành tố tự điều chỉnh và phục hồi – Trường hợp kéo dài lâu hơn là đã lạm sang khủng hoảng.

Bản thân lạm phát, lãi suất biến động, tài chánh tiền tệ, các liệu pháp,… có thể cũng là những công cụ. Nhưng đó là những công cụ vĩ mô rất phức tạp và nhạy cảm, có ảnh hưởng đến toàn cấu trúc,  được các nền kinh tế sử dụng rất thận trọng và phải nằm trong tầm kiểm soát cao. Do đó mà ở vào những tình huống vượt quá sự kiểm soát, bị móc ngoặc, bè phái lũng đoạn,… lập tức nền kinh tế có thể bị mất phương hướng, khủng hoảng như chờ chực từ lúc nào có thể ập đến ngay. Khủng hoảng tràn đến theo hướng này có sức tàn phá rộng như vỡ đê.

Những trường hợp vỡ đê này sẽ làm ngập tất cả chứ chẳng chừa ai. Nhưng do anh TTCK, anh ngân hàng hoặc một số anh nữa có điều kiện biết sớm và “chạy” trước nên bị ghét thôi. Dư luận bị lôi kéo vào các anh này nên không để ý đến các anh khác cũng chẳng hiền gì : anh hàng không cắt đường bay, anh sản xuất giảm công nhân, anh kinh doanh xoay xở chờ thời, anh có tiền co về thế thủ, thậm chí anh nhà báo cũng giảm số trang hoặc có trường hợp đóng cửa,…. Trong khi mấy anh vừa kể có vẻ như thu hẹp hoặc chỉ cầm chừng để né khủng hoảng thì ngược lại có  anh năng chạy tới chạy lui để kiếm chác – đó là mấy chú đầu cơ – Biết đâu tiếng Anh nay mai sẽ gọi đây là các “soros”. Nhưng xét cho cùng thì các  “soros” này cũng chỉ là những phần tử cơ hội, bị cho là lợi dụng gây rối thêm tình hình thôi (đạo đức kém!) chứ không phải là thủ phạm. Còn các ngành khác đã phản ứng để tự vệ ?  Tùy theo quan điểm mà đánh giá.

Không ai dám đi binh vực “cây súng” hoặc “con dao”. Nhưng nếu quy trách nhiệm tại chúng mà có máu chảy rồi luận tội chúng quá đáng… dễ làm cho ta quên cả khối việc tích cực mà chúng đã cống hiến xưa nay. Đối xử như vậy là không công bình, là thiếu cơ sở khoa học.

Những công cụ hoặc phương tiện có tính cơ chế trong nền kinh tế cũng tương tự. Đó là sản phẩm tích tụ bao đời của nhân loại, nên lợi ích chắc phải nhiều hơn, chúng cần được bổ sung và sử dụng tốt hơn chứ không nên có tình tự  dị ứng hoặc lo ngại quá mức cần thiết.

Trong những bối cảnh kinh tế đã được kiểm chứng, ta có thể rút ra một số nhận định sau đây. Nếu kinh tế thị trường là cơ chế có những động lực phát triển tốt, thì bản chất vận động của nó cũng có thể xuất hiện những đợt sóng hoặc những tồn tại không như ý, mà các nền kinh tế độc lập hay liên lập luôn cần ở tư thế sẵn sàng khắc phục và hiệu chỉnh. Ngoài ra, kinh tế thị trường khó mà có thể phát triển tốt nếu thiếu những cơ chế thị trường đồng bộ, như thị trường lao động, thị trường vốn – ngân hàng, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán,… và xa hơn có  cả thị trường hàng hóa tương lai (futures). Đó là chưa nói đến các hoạt động liên lập hoặc toàn cầu khác, các thuộc tính liên quan đến dòng chảy vốn đầu tư … mà một nền kinh tế không thể làm khác được hoặc đứng ngoài.

Những nghi ngại có thể là do những quan niệm quá lý tưởng, hoặc đòi hỏi một sự toàn hảo không thực tế, dễ đưa đến tình trạng chậm thời cơ.

Khủng hoảng, rõ là chẳng ai ưa. Truy tìm thủ phạm gây nên khủng hoảng rõ là cần thiết. Nhưng nên kiềm chế. Đừng có… “giết nó” oan.

Loài người nếu đã trót dại tốn tiền leo lên máy bay, để ngồi trên khối “thuốc nổ” đó là vì họ chưa có công cụ nào tốt hơn. Cho nên đã xảy ra biết bao tai nạn nhưng phi cảng vẫn cứ ì xèo.

 

 

Huy Nam

Chuyên viên nghiên cứu CK và TTCK.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Xem thêm bài viết