Nhiều năm gần đây, tại Tokyo, Doha, hay Seatle… chưa có một cuộc họp cấp cao bàn về mậu dịch thế giới nào mà không có biều tình. Tuy vậy, hoạt động thương mại toàn cầu vẫn đang là một cuộc trường chinh, là vận hội của hầu hết các quốc gia và lãnh thổ trên thế giới.
Trung Quốc chẳng hạn, phải kiên trì ròng rã 15 năm, không phải để tới cái đích nào cả, mà chỉ để được bắt đầu tham gia vào cuộc chơi lớn đó. Ngay từ những năm đầu thập niên ‘80, nền kinh tế nước này đã được khởi động với các xí nghiệp hương trấn, và theo thông tin đúc kết thì nỗ lực hội nhập của Trung Quốc được đẩy mạnh ngay từ đầu tại các tỉnh thành. Và sự kiện họ, cùng với Đài Loan, được kết nạp vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) vào cuối 10-2001 đã thực sự thu hút sự quan tâm và tác động mạnh đến hoạt động kinh tế chuẩn bị cho lộ trình hội nhập của Việt Nam.
Cũng vậy, dù báo chí trong nước thỉnh thoảng có lời bình, dị ứng nhiều hơn là ủng hộ chuyện toàn cầu, Việt Nam cũng đã dọn đường cho lộ trình này một cách dứt khoát. Chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO năm 1995, từ đó đến nay (thời diểm đầu năm 2002) Việt Nam phải trả lời 1500 câu hỏi giải trình về tình trạng minh bạch hóa chính sách với các nước thành viên và Ban Công Tác của WTO. Nay chính phủ ta đang tiếp tục đàm phán song phương (với 20–30 nước) về vấn đề mở cửa. Vào đầu 12-2001 Tổng Giám Đốc WTO, Mike Moore, đã thăm Việt Nam. Nhưng không phải đợi đến WTO thì ta mới bàn chuyện nhập cuộc và nhập cuộc thế nào. Đồng thời, đây không đơn giản chỉ dừng lại ở nỗ lực của nhà nước trung ương. Câu chuyện do vậy có thể được chuyển dần về các cấp thấp hơn và cơ sở.
Về tỉnh thành, rất ít nơi có các hoạt động vận động tập trung và xây dựng riêng cho mình một hoạch định chuẩn bị hội nhập. Nhiều nơi còn thờ ơ cả với chuyện tìm hiểu nội dung cam kết của chính phủ trong các hiệp định khu vực và song phương có những gì. Do đó mà không biết phải làm gì, bắt đầu từ đâu… Thay vì phải khởi động, không ít nơi lại tiếp tục kêu nài xin bao cấp. Lãnh đạo một tổng công ty gần đây còn than rằng, lộ trình cắt giảm thuế quan AFTA đến 2003 mới có hiệu lực thì tại sao lại cho giảm thuế nhập khẩu ngành hàng của ông sớm? Rất tiếc, vì nếu phải đợi tới 2003 mới khởi động thì không biết ta còn sản xuất hay sẽ đi “làm đại lý” cho nước ngoài! Hay như trường hợp TCty Máy Động Lực VEAM được Bộ Công Nghiệp giao và khuyến khích đầu tư sản xuất từ 300~500 ngàn động cơ xe máy một năm, nhưng lãnh đạo của VEAM đã đưa ra nhiều lý lẽ để thoái thác!
Ngay cách hiểu, ta dễ bị bó hẹp vào thương mại (mua bán, xuất nhập khẩu). Đâu biết rằng chỉ riêng với khu vực ASEAN, cùng với AFTA ta còn hằng loạt các cam kết khác như các cơ chế hợp tác đầu tư AIA, dịch vụ AFAS, ưu đãi thuế quan CEPT. Hoặc gọi là “Hiệp định thương mại Việt Mỹ”, nhưng hiệp định này không dừng ở thương mại, mà bao gồm cả đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ, hoạt động dịch vụ, và các ràng buộc có tính điều kiện để đảm bảo thực thi khác. Gay gắt hơn, cùng một thời gian ta sẽ phải triển khai song song ba bốn lộ trình. Trong đó có những vấn đề được xem là “bình thường” ở 144 nước (thành viên WTO) thì ở ta lại có thể phải nhức đầu, thậm chí sẽ đụng tới luật lệ! Về hiện trạng cơ cấu, những lợi thế cạnh tranh theo hướng kinh tế mở của ta, nhìn chung, được xem là khiêm tốn. Tại sao vậy? Vì một thời gian dài, gần như ta tập trung chủ yếu cho các hoạt động kinh tế “đón về” chứ chưa chú trọng việc chủ động “đi ra”. Nỗ lực cần có để chuyển các hoạt động kinh tế gia công, kinh tế cho thuê đất, khai thác nguyên liệu, sang các hoạt động kinh tế tiến công hơn, đặt các tỉnh thành ở ta trước thử thách mới. Các khu công nghiệp du nhập lợi ích dẫn hướng và lấy đà, nhưng khi dã có trớn mà không tự chạy được thì dễ bị là loại “ở đậu, làm thuê”.
Điểm lại một số thành tích hoạt động có tính chiến lược, chúng ta không thể hài lòng. Xuất khẩu chẳng hạn, chủ lực hiện nay là dạng nguyên liệu, như dầu thô, gạo, cà phê, thủy sản… Vì là nguyên liệu và nông sản nên rủi ro về giá và tình trạng bị lệ thuộc rất lớn. Lấy năm 2001 làm ví dụ, bên cạnh giá cà phê tiếp tục thảm hại, hạt điều xuống còn khoảng nửa giá, dầu thô cũng rớt nặng. Khuynh hướng tự cân đối về gạo của nhiều nước trên thế giới lại đang đe doạ đến xuất khẩu gạo của ta. Các cơ cấu hàng hóa xuất khẩu khác còn mờ nhạt. Ngành may và da giày có những đóng góp đáng kể, nhưng có đến từ 70%-80% giá trị hàng hóa xuất khẩu là làm theo các hợp đồng gia công. Chúng ta chưa tiếp cận được với khách hàng và các thị trường chủ lực. Đã vậy, hiệu quả sản xuất vẫn còn là bài toán. Giá nhân công của ta tuy rẻ hơn các nước: Mã Lai 5 lần, Thái Lan hơn 4 lần, Trung Quốc gần 2 lần, nhưng do kỹ luật và năng suất kém, cộng với phụ liệu phải nhập, nên giá thành trở nên cao hơn nhiều nước khác. Ngành điện tử cũng có hoàn cảnh tương tự.
Do hậu quả bao cấp, thiếu tiếp cận cọ xát, thiếu thử thách thị trường và quản trị chuyên nghiệp, gần đây, một số ngành sản xuất trong nước đã được phục hồi và phát triển, nhưng lại có giá khá cao so với các nước trong khu vực. Theo một so sánh của Bộ Kế hoạch Đầu tư (quý 2/2001) thì mức độ bảo hộ thực sự đối với ngành nhựa là 167%, ximăng/clinker khoảng 90%, đồ dùng gia đình là 108%, xe máy xe đạp 59%, đồ uống không cồn 50%, chất tẩy rửa 39%… Đó là chưa nói đến các tồn tại và hậu quả khó chấp nhận của các ngành độc quyền. Chẳng hạn, nếu ở ta phải cần đến 50 người phục vụ cho mỗi 1000 line điện thoại, thì ở Thái Lan chỉ cần có hơn 7 người; mức thất thoát truyền tải và phân phối điện ở Việt Nam thấp nhất là 15,3% thì ở Thái Lan là 6% (TBKTSG – 13/9/2001). Kể ra sẽ còn nhiều, ví dụ cước điện thoại, truy cập mạng, vé máy bay, hàng hải… được xem là đắt nhất thế giới, trong khi chất lượng phục vụ thì ngược lại. Hậu quả là dân ta thu nhập thấp phải trả chi phí cao hoặc chịu nhịn thèm, sản xuất bị đội giá thành, hiệu lực thu hút đầu tư nước ngoài kém. Vài năm trở lại đây một số ngành hàng công nghệ và điện tử tinh xảo đã tăng dần trong danh mục xuất khẩu, nhưng đó chủ yếu là của khu vực đầu tư nước ngoài và các khu chế xuất. Ta lưu ý, các doanh nghiệp loại này chỉ để lại trong nước tiền thuê đất, tiền công và thuế.
Kinh nghiệm Trung Quốc vừa qua thật đáng để ta học hỏi. Không phải đợi đến gần đây khi WTO rục rịch kết nạp nước này ta mới biết chuyện “đi Mỹ sắm hàng Tàu”. Gần 10 năm trước đây, tại bất kỳ siêu thị nào ở Úc, kể cả một cửa hàng nhỏ ở Wollongong hay chợ trời (free market) ở ngoại ô Sydney, đụng tới món tiêu dùng nào cũng dễ là hàng Trung Quốc. Kể cả đồ lưu niệm, muốn có một món đặc trưng Úc đem về kỷ niệm hoặc làm quà cũng dễ bị “mất linh”. Thật bái phục, người Trung Quốc nghiên cứu và đưa đến thị trường này không thiếu món Úc nào, phải tinh mắt hoặc may mắn ta mới phát hiện “made in China” đâu đó. Họ bán tràn ngập khắp ngóc ngách mà họ đoán rằng các đám du lịch ham lục lọi của rẻ sẽ nhào vô!
Hầu hết các siêu thị đều có khu “sale” (bán xôn). Đặc biệt là các dãy bán hàng “bargain” (hàng giá bèo) trên các lối đi trong siêu thị, vị trí mà hầu như hàng Trung quốc độc chiếm. Người viết đã từng bất giác “ngộ” ra một triết lý tiếp thị bổ sung. Nội dung môn “marketing” mà ta đang dạy cho sinh viên nói: hãy bán cái người ta cần chứ không phải cái mình có. Nhưng người Trung Quốc vừa bán cái mà người tiêu dùng cần lẫn thứ mà người Trung Quốc có! Tiếp thị “cái người ta cần” mà thành công thì khỏi bàn, nhưng kiếm ăn được trên “cái mà ta có” mới đáng nói. Có vẻ như các nhà buôn Trung Quốc (thương gia – giới mà ở ta rất hiếm!) đã tính trước việc xuất khẩu của họ chủ yếu chỉ cần để bán ở các khu “sale” hay các giỏ “bargain” kia. Vâng, là hiệu quả kinh tế chứ không phải sĩ diện ở chợ! Theo họ, có lẽ việc được chưng trong tủ kiếng là cho có với thiên hạ, được thì tốt mà không được cũng chẳng sao. Bởi vì, giá bèo tính theo kiểu Úc, kiểu Âu hay Mỹ, thì cũng ngon xơi rồi! Do đó họ chịu khó đi ra điều nghiên lục lọi, chấp nhận thử thách, khéo léo thuyết phục, thậm chí “lobby”, để đưa được nhiều hàng vào những nơi đó, để tìm chỗ đứng (có vẻ như riêng) cho mình. Và họ đã đánh trúng “chỗ yếu” về khuynh hướng tiêu dùng hàng rẻ. Nói là nói vậy, chứ hàng của họ xuất chính ngạch thì thường không tồi đâu nhé.
Hàng “tuồn” qua biên giới đa số mới là hàng tổ hợp (của các địa phương), được bán tràn lan với giá không ngờ tại các thị trường dễ tánh, nơi còn thiếu thốn, hoặc ít tiền như Việt Nam, Lào, Campuchea. Đây là một chứng minh nữa cho việc họ đã thành công trong nỗ lực bán cái mình có. Chủ trương bán cái mình có còn được họ vận dụng để bán những thứ có tính “đặc sản” ra thế giới. Đó có thể là hàng (đồ vật) theo truyền thống, phong tục, tôn giáo,… như những đồ đeo cổ, treo ở đầu cửa, đeo tay…. Hoặc những sản phẩm thuộc ý tưởng lãng mạn khác được giới thiệu để người khác biết mà xài. Xin mở một ngoặc đơn, đặc biệt trong ngành du lịch, việc khai thác “cái mình có” để tiếp thị và bán hàng đang là một nội dung có tính giáo khoa và thời thượng đó chứ. Về sự chuẩn bị đi trước đón đầu, có thể kể thêm chuyện họ “tham gia” Thế Vận Hội Sydney. Olympic Sydney diễn ra hồi năm 2000, nhưng ai qua Úc vào khoảng năm 1993 thì đã có thể bắt gặp được hàng lưu niệm Trung Quốc dành cho sự kiện này rồi. Sau đó (1993) một hai năm, bắt đầu được bán đầy ở vùng “Homebush” hoang vắng (tây Sydney), nơi mà 5-6 năm sau (năm 2000) mới diễn ra các cuộc tranh tài Thế Vận Mùa hè. Họ đã tham gia sự kiện toàn cầu này sớm hơn các đoàn vận đông viên tới 7 năm và “đoạt thành tích” trước khi sự kiện đó khai mạc.
Trở lại Việt Nam, trong khi ta thuộc lòng cụm từ thời cơ và thách thức của hội nhập, thì thực tế tại nhiều đơn vị và địa phương có thể lại đang loay hoay tìm chỗ bắt đầu, chưa biết làm gì, hay vẫn im lặng … đợi. Kinh tế các địa phương vẫn còn nặng thủ công, gia công, nông nghiệp và nguyên liệu… Về công nghiệp, nếu tách phần của đầu tư nước ngoài và các cơ sở quốc doanh lớn sẵn có thuộc trung ương (còn trụ được) ra, thì có thể thấy ngay sự yếu ớt. Chẳng hạn nếu ta bóc phần thu nhập từ đầu tư nước ngoài, dầu khí hoặc một số hoạt động độc quyền chiến lược, ra khỏi cơ cấu GDP thì nhiều tỉnh thành sẽ không còn mạnh như ta nghĩ. Đa số các địa phương, kể cả tại các vùng trọng điểm, đã phát triển công nghiệp ở thế thụ động bằng các khu công nghiệp, mà thực chất là khai thác đất, cho thuê đất. Nhiều nơi ế ẩm nhưng không có cách nào khác, vẫn tiếp tục mời gọi hoặc ngồi đợi. Khu công nghiệp trở thành phong trào vì nó là thứ sẵn nhất và có lẽ dễ nhất (?). Nhiều tỉnh duyên hải Miền Trung một thời còn thêm phong trào cảng biển. Trong khi đó, giá cước vận chuyển một container 40 feet từ Việt Nam đi Nhật đắt gấp 3 lần từ Singapore đi Nhật – chi phí neo chờ, vận hành và bốc xếp tàu 10.000 tấn ngay ở Sài gòn thôi đã đắt gấp đôi so với Bangkok (40.000 USD so với 20.000 USD). Vậy mà tỉnh nào cũng có kế hoạch mở hải cảng, nghe thì oai thật nhưng hàng đâu, có tàu nào dám tới? Thời rộ lên phong trào xuất nhập khẩu thì tỉnh nào cũng tập trung tự cân đối “để nhập”, đến mức quên mất thị trường tại các tỉnh khác trong nước và kế hoạch nội tiêu. Mới đây nhiều nơi lại quay sang “mê” lắp ráp xe gắn máy…
Thiển nghĩ, các tỉnh thành, kể cả nơi được xem là có mức phát triển kinh tế cao nhất, vẫn cần soi lại nội lực kinh tế hướng ra của mình là gì. Không nên “điểm danh” nhầm cái không phải của mình. Không nên để có sự mơ hồ chuyện ta có hội nhập hay không, khi xem một cuộc biểu tình trên tivi hay đọc bài phiếm luận trên một tờ báo. Hội nhập đến rồi, và ta đã mở cửa cho bạn (đúng ra phải gọi là “đối thủ”) vào rồi. Hiệp định Việt Mỹ đã có hiệu lực. Đến năm 2003 là AFTA, phấn đấu gia nhập WTO trước năm 2005. Cuộc chơi sau đó lại sẽ chẳng bao giờ dừng lại, sẽ liên tục liên tục. Bởi vậy, các tỉnh thành, doanh nghiệp cần có kế hoạch cụ thể cho mình và chuẩn bị sẵn một tinh thần tiến công, bền chí chiến đấu! Cần thiết phải tạo lực để hướng ra, đi ra, kể cả đi ra khỏi tỉnh và đến với các tỉnh bạn! Xin đừng tự hào dừng lại với cái hiện có, đừng ngồi chờ trên “đất”!
Để kết thúc bài này, cũng là để củng cố niềm tim và xem việc mở cửa và hội nhập có lợi gì, xin cung cấp lại một thông tin tham khảo: Tháng 11-1999, Trung Quốc ký kết Hiệp Định Thương Mại Trung–Mỹ thì lập tức năm 2000 sau đó, quốc gia này trở thành lục địa có lợi thế vượt trội về thu hút đầu tư, chiếm 80% (hay số tuyệt đối là 50tỷ USD) trên tổng giá trị đầu tư của toàn Châu Á. Chấp nhận thử thách, kết quả sẽ là sự thú vị, phong phú sinh động, phát triển và giàu có.
(2002)
(Báo Xuân Nhâm Ngọ Đồng Nai; Thời Báo Kinh Tế VN; Báo Đà Nẵng)