Cổ phần hoá: Khoảng lặng 51%…

Đăng ngày

Chia sẻ:

Sau khoảng ba năm nở rộ kể từ 1998, hoạt động cổ phần hoá năm 2002 đã rơi vào tình trạng trầm lắng. Đầu năm 2003, với quyết tâm của Chính phủ, khoảng 2000 doanh nghiệp đã  được lên lịch cho kế hoạch sắp xếp từ 2003 đến 2005, chỉ tiêu cổ phần hoá (CPH) mỗi năm được xác định cụ thể bằng các danh sách riêng cho từng bộ ngành, địa phương. Lần này ai cũng nghĩ sẽ có chuyển biến mạnh. Tuy vậy, đến gần hết Qúy III/2003 tình hình thực tế vẫn không mấy khả quan. Có nơi kế hoạch dự trù cho năm 2003 là trên 100 doanh nghiệp, nhưng số hoàn tất CPH tới thời điểm này mới chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

Nguyên nhân đưa đến sự trì chậm như vậy ngoài những lý do cố hữu, nay có thêm các vướng mắc từ những quy định mới, trong đó có phương thức xác định giá trị doanh nghiệp theo chiết khấu dòng thu nhập (DCF), thủ tục đấu giá chứng khoán… Phương thức chiết khấu dòng thu nhập tuy có một số ưu điểm, nhưng khi áp vào thực tế CPH lại có lắm tiểu tiết trắc trở, độ tin cậy của giá trị xác định không cao, từ đó có thể gây tranh cãi vì nhiều yếu tố là giả định.

Tuy nhiên, những vấn đề cũ và mới vừa đề cập có thể dễ khắc phục hay điều chỉnh, vì dù sao thì chúng cũng nằm ở ‘đoạn dưới’, là khâu thực thi. Một nguyên nhân khác nằm ở ‘đầu trên’ (khâu chủ trương), tuy mới xuất hiện vào năm 2003 nhưng có ảnh hưởng khá mạnh đến tâm lý triển khai, đó là qui định về tỷ lệ cổ phần do nhà nước giữ lại, mức 51% đối với các công ty có vốn trên 5tỷ đồng (Chỉ thị 01/2003/CT-TTg). Dù ít nghe nhắc đến, đây là một vấn đề được hầu hết các công ty trong cuộc, nhà đầu tư, và giới phân tích kinh tế quan tâm đặc biệt. Băn khoăn chủ yếu xuất phát từ tâm lý e ngại trước sự ra đời một thực thể “vừa là doanh nghiệp cổ phần vừa là doanh nghiệp nhà nứớc”. Chuyện nghe lạ này có lý lẽ riêng.

Trước tiên, bình thường trong một công ty cổ phần, cổ đông chỉ cần nắm giữ 10% tổng lượng cổ phần là có thể có vai trò nặng ký, có ảnh hưởng mạnh đến công ty đó rồi. Đối với các công ty tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán, cổ đông chỉ cần sở hữu 5% thôi đã được xếp vào loại “ông lớn”. Một công ty cổ phần mà nhà nước giữ lại tới 51% thì nó hoàn toàn có thể duy trì sự quản lý như cũ, yếu tố đổi mới là không thể hay rất khó xảy ra! Bởi theo Luật Doanh Nghiệp (LDN), tỉ lệ 51% có khả năng chi phối hầu như toàn bộ (gần như tuyệt đối) mọi hoạt động của công ty. Không chỉ có lợi thế biểu quyết, theo lý thuyết thì kể cả cuộc họp đại hội đồng cổ đông cũng không cần thêm một cổ đông nào khác! (Điều 70 – khoản 1 LDN). Như vậy, mục tiêu “tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp…” sau khi chuyển sang công ty cổ phần theo chủ trương CPH (Điều 1 khoản 1 Nghị định 64/2002/NĐ-CP) sẽ khó có cơ hội thực hiện.

Thêm vào đó, trong bối cảnh cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang diễn ra, bên cạnh hoạt động sắp xếp hay cổ phần hóa, một dự thảo Luật DNNN (sửa đổi) đã được đưa ra bàn luận vào giữa năm 2003. Ngay ở phần định nghĩa thế nào là DNNN của dự thảo này, tức việc nhận dạng hình thức doanh nghiệp, người ta thấy trong đó bao gổm các ‘công ty cổ phần do nhà nước giữ cổ phần chi phối’! Điều này có vẻ ‘đụng chạm’ đến chủ trương CPH đã được xác lập. Bởi vì theo qui định hiện hành, DNNN sau khi hoàn tất thủ tục chuyển đổi theo hướng CPH sẽ hoạt động theo LDN (Điều 31, Nghị định 64/2002/NĐ-CP). Như vậy, liệu rằng một công ty cổ phần vừa phải bươn chãi trong một sân chơi qui ước có tính sàng lọc khắc khe (Luật Doanh Nghiệp), vừa phải tuân thủ một khuôn khổ được chế định theo quyền năng độc tôn (Luật DNNN), sẽ có điều kiện hoạt động tốt hơn hay tốt bằng các doanh nghiệp chỉ cần theo một luật, chơi trong một sân?

Thông tin về tình trạng một doanh nghiệp cùng lúc bị chi phối bởi hai “luật doanh nghiệp” như vậy (dù chỉ mới là phát hiện trong dự thảo chứ chưa cụ thể) đã tạo ra tâm lý phân vân, dò xét… Phản ứng mẫn cảm này là biểu hiện phòng thủ trước khả năng có thể có những trường hợp CPH mà chỉ có “chuyển” chứ không có “đổi”, là bê nguyên cái cũ qua. Không có thứ muốn tìm – cung cách quản lý mới năng động sáng tạo – hoạt động CPH sẽ thiếu động lực.

Sự không đồng bộ giữa ‘chân ga và tay thắng’ như trên chẳng những làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình thúc đẩy CPH mà có thể còn kéo dài đến hậu CPH. Đã vậy, các tổng công ty lại ít khi muốn các “con” mình ra riêng. Lo bị mất tầm ảnh hưởng, nhiều tổng công ty cứ đòi được giữ cổ phần chi phối mỗi khi có ‘ông con’ nào đó muốn CPH, thậm chí đối với cả các công ty bé xíu có vốn chỉ vài tỉ đồng cũng vậy!

Thật ra, việc giữ lại 51% cổ phần chi phối khi cổ phần hoá một công ty sẽ là việc bình thường nếu công ty đó đang thủ đắc các ưu thế vượt trội. Thông thường đó là những công ty có gốc gác (hay lịch sử) qủan trị và phát triển rất tốt; ngành kinh doanh có tiềm năng hấp dẫn, không dễ gia nhập hay cần điều kiện cao; lãnh vực hoạt động có lợi thế ổn định, được ưu đãi… Và đặc biệt là bối cảnh về pháp lý cổ phần trong nền kinh tế đã phát triển tốt, nhất là về cơ chế đảm bảo tính minh bạch. Vì 51% là tỷ lệ áp đảo nên chỉ các công ty rất chọn lọc mới áp dụng.

Trong khi nhà nước một lần nữa tỏ ra thận trọng với khuyến nghị giữ lại 51%… thì đồng thời cũng rất quyết liệt muốn đẩy mạnh tiến trình CPH cho kịp với lộ trình hội nhập. Do đã được lên danh sách, lần này các doanh nghiệp không còn lý do để nấn ná, tuy vậy hầu hết họ vẫn còn ngại về tỉ lệ “51%”. E ngại này có cơ sở và là một lo toan tích cực, bởi rất nhiều giám đốc ngay khi dự trù hiệu quả sau CPH đã nghĩ đến chỉ số ROE (return on equity/lợi thuần trên vốn cổ đông), đây là số đo ‘không có cửa để xuề xòa’ với bất kỳ công ty cổ phần nào! Mà hiệu quả lại không tỷ lệ thuận với độ lớn của cái ô bao cấp!

Nói khác đi, chính lãnh đạo các công ty sắp CPH đang muốn tìm động lực cho công ty mình sau này. Động lực ấy có điểm gặp nhau với công chúng đầu tư ở chỗ mưu cầu hiệu quả. Đây có thể xem là nguyện vọng chung về một hướng giải quyết mềm dẻo và uyển chuyển hơn để đẩy mạnh tiến trình.

Huy Nam, 2003

 

Xem thêm bài viết