Tuy chẳng còn mới lạ, nhưng nếu người này xem cổ tức là thu nhập thì kẻ khác lại cho đó không phải lợi. Mặt khác, nếu việc trả cổ tức là thông lệ không thể thiếu, thì các trường hợp thua thiệt của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam là sự thật không khó thấy. Sự thua thiệt này chủ yếu là do cách trả, do lỗi ở thủ tục chi trả…
Cổ tức có thể được trả bằng tiền, bằng các loại tài sản khác tiền, là cổ phiếu, phiếu nợ (scrip), nhưng phổ biến vẫn là bằng tiền do đây là hình thức chính thống và truyền thống. Trả bằng cổ phiếu được xem là cách bất đắc dĩ hay bất thường, ít được đón nhận tích cực từ giới đầu tư trên TTCK.
Theo nguyên tắc, bất cứ hình thức trả cổ tức nào cũng luôn được căn cứ và tài trợ bằng lợi nhuận thuần. Rõ hơn, cổ tức phải được quy ra tiền và chi trả từ nguồn lợi giữ lại (retained earning). Điều này là để phân biệt với các kỹ thuật chiết tách (forward split) và thủ tuc thanh lý (liquidation), mà trong diễn đạt đôi khi người ta vẫn dùng thuật ngữ ‘dividend’.
Về thủ tục, để đảm bảo có sự chặt chẽ, việc tiến hành trả cổ tức sẽ cần thông qua bốn thời điểm: Ngày công bố /Declaration date – Ngày giao dịch không cổ tức /Ex-date – Ngày ghi nhận /Record date – Ngày chi trả /Date of payment. Xin lưu ý: bốn thời điểm liệt kê ở đây chỉ là bốn cột mốc cần và buộc phải có để tiến hành các thủ tục nghiệp vụ cần thiết chứ không nhất thiết là trình tự. Mặt khác, trong khi các ngày công bố, ghi nhận, chi trả sẽ do doanh nghiệp quyết định, thì ngày ‘ex-date’ phải được sở giao dịch ấn định.
Rất tiếc, cho đến nay (2016) tại thị trường Việt Nam hầu như chỉ có ba cột mốc được ghi nhận, được xếp đặt và tiến hành theo thứ tự cứng là: ngày giao dịch không cổ tức, ngày ghi nhận, và ngày chi trả. Không có ngày công bố.
Bên cạnh sự thiếu sót ‘ngày công bố’ cộng với ‘trình tự thực hiện cứng và đơn điệu’ như vậy, thủ tục điều chỉnh giá, thuế, cũng đơn giản và không hợp lý. Tình trạng lại đã tồn tại quá lâu, gây thiệt hại không nhỏ cho nhà đầu tư và không dừng lại ở nhà đầu tư… Tại sao?
Thứ nhất, ta cần biết việc công bố trả cổ tức mặc nhiên là việc xác định một nghĩa vụ. Sự kiện này cùng lúc sẽ hình thành một khoản nợ cần được chốt lại để chờ chi trả. Nếu không có ngày công bố thì sổ sách kế toán công ty sẽ không có bút tích ghi nhận khoản nợ này. Việc không có cột mốc để thực hiện bút toán điều chỉnh sẽ làm cho nguồn vốn chủ sở hữu (phần retained earning) thể hiện một ‘khoản ảo’ từ ngày công bố đến ngày chi trả. Khoản ảo này có khi rất lớn, mặc nhiên thể hiện sự kém minh bạch trong các giao dịch tài chánh liên quan đến tài sản thuần. Đó là chưa nói đến ‘sự ràng buộc nghĩa vụ phải trả’ với nhà đầu tư, bởi thực tế họ đã từng bị lờ, bị dây dưa hứa cuội…
Thứ hai, việc chỉ đơn thuần áp dụng điều chỉnh giá (vào ngày ex-date) trước ngày ghi nhận (record date) và trước ngày chi trả (payment date) nếu được xem là không có vấn đề gì đối với các khoản trả nhỏ, thì đối với một khoản trả lớn (đặc biệt với hình thức tiền mặt) sẽ là vấn đề. Bởi, một khoản điều chỉnh lớn (giá cổ phiếu bị cắt sâu) cộng với thời gian chờ trả lâu sẽ liên quan đến vấn đề giá trị tiền tệ theo thời gian (hệ quả TVM), là khía cạnh không thể bỏ qua hay bị xem nhẹ trong giao dịch tài chánh.
Ngoài bất lợi tiềm ẩn từ việc điều chỉnh giá như vừa nói, việc trả cổ tức bằng cổ phiếu (ở ta) lại không có ‘ngày thanh toán’, nên việc điều chỉnh giá cổ phiếu vào thời điểm ‘không hưởng quyền’ sẽ là điều thiệt cho nhà đầu tư: Họ vừa không nhận được tiền, vừa sẽ chịu rủi ro tiềm ẩn đối với số cổ phiếu trả cổ tức trong thời gian chờ niêm yết. Thời gian này càng dài nhà đầu tư sẽ càng bất lợi. Chỉ số giá thị trường cũng sẽ cùng số phận.
Thứ ba, trả cổ tức bằng cổ phiếu là động tác trung tính (neutral event). Rõ hơn, hình thức này không làm thay đổi giá trị sổ sách doanh nghiệp. Và do tiền không ra khỏi công ty, không về túi nhà đầu tư như cách trả tiền mặt nên thủ tục điều chỉnh giá, nói chung, không thể áp dụng như cách trả tiền mặt. Thay vào đó, việc trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ được điều chỉnh tương tự như chiết tách, bất kể là nhiều hay ít. Xét về trình tự và thủ tục thì cách làm ở ta không giống chiết tách, mặc dù thoạt nhìn có vẻ giống.
Vậy, ta hãy xem điều gì cần làm để hóa giải hiện trạng và nhằm để cải thiện môi trường đầu tư?
Trả cổ tức là bình thường, nhưng trả ‘khủng’ là bất thường. Thế nào gọi là khủng? Theo cách phân định phổ biến của thế giới thì với tỷ lệ bằng hoặc cao hơn 25% thị giá là khủng. Tỷ lệ này có thể thấp hơn tùy thị trường quy định, thường ở khoảng 20%.
Xin mở ngoặc, việc sử dụng phần trăm trên thị giá ở đây chỉ là phép đo trong quản lý và chỉ có ý nghĩa ở thời điểm công bố thôi (declaration date). Trường hợp Kinh Đô vào 7/2015, nếu KDC lúc đó có giá 50.500 và cổ tức được trả là 20.000 đồng thì tỷ lệ là 40% chứ không phải 200% như nhiều báo đã đưa tin khi liên hệ với mệnh giá cứng 10.000. Trong thực hành, việc công bố cổ tức bằng tiền mặt sẽ cần là số tuyệt đối. Ở ta quen công bố theo phần trăm, lúc trên mệnh giá, khi trên cổ phần (thị giá) là tùy tiện.
Việc định ngưỡng nói trên (20% hoặc 25%) chủ yếu là để áp dụng các thủ tục riêng cho việc trả cổ tức cao bằng tiền. Tuy nhiên, các thủ tục này đồng thời cũng được áp dụng cho hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu bất kể với tỷ lệ nào nằm dưới mức ngưỡng quy định (xem phần sau để rõ hơn). Điều này có mục đích để khử khoảng thời gian ‘chờ được trả’ như đã đề cập.
Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu tuy có làm tăng lượng cổ phiếu, nhưng nguồn vốn không tăng không giảm, nên theo bài bản thực nghiệm và lý lẽ danh nghĩa, hình thức này chỉ được xem là cổ tức khi nó nằm dưới mức ngưỡng quy định. Đồng thời, việc điều chuyển lợi nhuận giữ lại sang vốn góp trên sổ sách doanh nghiệp sẽ bằng đúng với tỷ lệ trả cổ tức. Ví dụ, giá cổ phiếu đang là 60.000 và tỷ lệ trả là 20% thì khoản tài trợ sẽ cần là 10.000/cổ phiếu. Nếu trả trên mức ngưỡng thì theo cách của thế giới, đặc biệt là với GAAP (Generally Accepted Accounting Principles), sẽ được xem là chiết tách và thủ tục được áp dụng chiết tách.
Từ đặc điểm trung tính, có thể hiểu việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, dù ít hay nhiều, đều có bản chất là chiết tách. Đây thực ra là cách huy động vốn kín kẽ do doanh nghiệp chủ trương và quyết định khéo léo chứ không là việc chia lợi nhuận cho nhà đầu tư. Động tác điều chuyển này nếu lớn quá sẽ ảnh hưởng đến khoản ‘cơm gạo’ của nhà đầu tư (lợi nhuận tích lũy). Do vậy cần có ngưỡng chặn để tránh tùy tiện và để bảo vệ nhà đầu tư.
Như đã đề cập, một sự kiện trả cổ tức cần có đủ bốn bước, qua bốn mốc thời gian. Tuy nhiên, về trình tự các bước sẽ cần được sắp xếp sao cho hợp lý (tùy theo mức trả và cách trả) để sửa các lỗi thị trường. Theo đó:
- Mức bình thường là: ‘Công bố → Giao dịch không cổ tức → Ghi nhận → Chi trả’ (1)
- Mức định ngưỡng là: ‘Công bố → Ghi nhận → Chi trả → Giao dịch không cổ tức’. (2)
“Ngày giao dịch không cổ tức” của trình tự (2) được hiểu là ngày triễn hạn (deferred ex-date) đi liền sau “ngày chi trả” để khử bất lợi từ các nhát cắt sâu của cách trả bằng tiền mặt và tránh rủi ro giá xuống ở cách trả cổ tức bằng cổ phiếu (do không có khoảng thời gian chờ tiền hay cổ phiếu về). Mặt khác “ngày giao dịch không cổ tức” của trình tự (2) cũng giúp loại bỏ tình trạng sốc giá tâm lý của cách trả tiền mặt, và khắc phục lỗi điều chỉnh của cách trả bằng cổ phiếu.
Trình tự (2) sẽ giúp cổ phiếu có điều kiện giao dịch với giá cả bình thường từ sau ngày “ghi nhận” đến trước ngày “giao dịch không cổ tức”. Cái khác ở đây là cổ phiếu trong diện sẽ được ‘đính kèm một phiếu nợ’ để ghi nhận cổ tức gọi là due bill. Theo trình tự này, đầu tiên cổ tức xem như được trả cho bên ghi nhận (holder of record). Sau đó, vào ngày thực hiện due bill (ngày chi trả), cổ tức sẽ được chuyển sang cho người thực hưởng (người mua trước ex-date một ngày).
Do thời gian từ ngày ghi nhận đến ngày giao dịch không cổ tức có thể kéo dài, nên việc làm thế nào để có cổ phiếu sẵn sàng là yếu tố tiên quyết đối với cách trả bằng cổ phiếu. Tóm lại, có thể nói ‘ngày ghi nhận’ là để xác định cổ phiếu nào được trả cổ tức, và ‘ngày giao dịch không cổ tức’ là để xác định ai sẽ nhận cổ tức. Việc xử lý due bill sẽ do các nhà môi giới thực hiện.
Do tiền không ra khỏi doanh nghiệp và cổ đông cũng không nhận về khoản nào, không là hình thức giải tư (withdrawal), nên cổ tức cổ phiếu không bị đánh thuế. Đây là lợi ích cốt lõi của việc nhận cổ tức bằng cổ phiếu, nếu đánh thuế thì hình thức này chẳng còn ý nghĩa gì. Tuy nhiên, theo cách làm của thế giới, nếu đợt trả có thêm tùy chọn giữa cổ phiếu hoặc tiền mặt thì sẽ bị đánh thuế cả hai, cho dù nhà đầu tư chọn cách nhận cổ phiếu.
Huy Nam, Chuyên gia Kinh tế TC Độc lập – Giảng viên PACE – Thành viên HĐ Chỉ số HOSE – Trọng tài viên TT Trọng tài Quốc tế VN – VIAC.