1.
Bước sang 2004, thị trường chứng khóan nước nhà đã ‘lên bốn’ với ít nhiều khấp khởi… Thời gian tạo lập ngắn hay dài, lâu hay mau, có lẽ không còn quan trọng so với những bài học đắt giá. Lớp đi đầu do đã thấm ‘đá-vàng’, họ bản lĩnh và trầm lặng hơn chứ không ồn ào. Dù sao thì cũng đã có những dấu hiệu cho phép lạc quan. Có cả niềm vui khi nền kinh tế đã quen dần với một định chế tài chánh mà chỉ mới ‘hôm qua’ thôi vẫn còn được xem là xa lạ này.
Nhưng dù phấn khởi thế nào thì tình trạng không vui mới đó mới đây sẽ chẳng là điều cho phép ta dễ quên (không nên quên!). Hơn hai phần ba thời gian kể từ ngày đầu đến hết Qúy 3–2003 thị trường như bị hụt hẫng, liên tục suy thóai hoặc trầm lắng kéo dài. Có thể nhìn lại giai đọan hơn hai năm trước đó để thấy sự óai oăm: Cái ‘nhiệt kế kinh tế’ mới sắm kia cứ chạy ngược với nhịp độ tăng trưởng kinh tế chung là điều chẳng bình thường và làm ta sốt ruột. Có lẽ do vậy cho nên từ chỗ biết lờ mờ hay chưa biết gì về thị trường chứng khoán (TTCK), chẳng lâu sau ở ta hầu như ai cũng biết đã từng có một TTCK ‘ế ẩm’! Từ chỗ hăm hở, nhiệt tình, tranh thủ lên kế hoạch tìm cơ hội hay một chỗ đứng trong thị trường đó, vừa qua có người đã thất chí tháo lui. Có người còn tỏ ra cay đắng đến mức dị ứng… Những người gắn bó, vì trách nhiệm, còn đam mê hay tâm huyết, có lúc phải hơi thu mình tồn tại với ít xót xa. Một bối cảnh đan xen giữa ưu tư trăn trở, bức xúc phê phán, và thậm chí có cả tình tự ‘mackeno’ hay ‘đáng đời’! Tạm gát lại chuyện nguyên nhân, vốn đã có trăm đường đợi sẵn hoặc luôn bị che mờ bởi lý này lẽ nọ, là do…tại…bởi…vì…, một định chế tài chánh lý ra tốt đẹp và cần thiết cho cơ chế kinh tế thị trường như vậy lại chẳng may rơi vào thế bị lạnh nhạt là điều đáng tiếc. Cũng đã có công ty niêm yết thoáng thấy tiếc(!) về quyết định niêm yết của mình… Thế mới gay!
Bên cạnh nhiều nỗ lực khơi thông, thỉnh thỏang lại nghe đây đó lời bàn ra hay nói tránh chuyện xây dựng thị trường. Dù có niềm tin vững vào tương lai, nhiều người vẫn cứ trăn trở, cứ lo lo… Có chăng một thị trường được mệnh danh là cấp cao đã bị đánh giá thấp?…
2.
Vào bối cảnh mà ai tâm huyết đều dễ chạnh lòng ấy, người trong ngành lắm khi bối rối hay có thể bị bắt bí trước các câu hỏi tưởng chừng đơn giản: “Nên hay không nên tham gia TTCK?”; “Tại sao tham gia?”; “Tham gia để làm gì?”… Những cú ‘đi banh dồn dập xuống hàng phòng ngự đội nhà’ đang lúc rối như vậy có thể tạo nên tình huống “lên lớp ngược”. Ai không vững rất có thể bị kéo sang góc nhìn méo lệch, dễ đâm ra ngờ ngợ rồi nghi ngại thị trường… Nếu thái độ ấy vô tình hay cố ý lộ ra từ ‘phe ta’ thì đường đi của công ty đến TTCK lại càng xa cách. Đã có lúc tình hình nhuộm bi quan, tưởng bế tắc, thóang như một ngõ vắng…
Nhưng không, đáng mừng là chủ trương của Chính phủ ngày một khẳng định rõ hơn: TTCK là cơ chế không thể thiếu trong tiến trình đổi mới và phát triển kinh tế. Thiếu TTCK, nền kinh tế thị trường sẽ thiếu mất một ‘sân chơi’ theo qui ước đồng bộ. Các diễn biến xập xình trước đây chỉ là phản ứng nhất thời của công cụ trước môi trường dung nạp nó, một môi trường chưa hội đủ tố chất. Giống như phản ứng thuốc ấy thôi! Đấy không phải ngõ vắng mà là con đường. Ở tầm vĩ mô đó là kênh dẫn vốn quan thiết của cơ chế thị trường. Còn ở tầm vi mô, nếu ta chưa tin đó là con đường đang mở ra thì hãy hỏi vài câu hỏi: “Tại sao lại là công ty cổ phần?”; “Bước kế tiếp của một công ty cổ phần (hay sau cổ phần hóa) là gì?”. Các câu hỏi ‘dành cho chuyên gia’ này có lẽ không dễ trả lời và có thể dài dòng. Tuy nhiên, “bước kế tiếp” ở câu hỏi sau có thể được trả lời đơn giản là ”tham gia TTCK”. Trả lời này đúng nhất theo quy luật vận động hay xu thế tiến hóa của một công ty cổ phần hội nhập. Bởi nếu không tham gia TTCK (hay giả định sẽ không có thị trường này) thì cổ phần mà làm gì, và làm sao gọi vốn? Chỗ này lại có thể dài dòng nữa… Ay là chưa nói đến đất sống cho ‘anh khổng lồ’ trái phiếu.
Thế nhưng, khi được động viên khuyến khích niêm yết, rất nhiều công ty đã đặt thêm các câu hỏi khác rất căng: “Có chắc sẽ ích lợi, sẽ tốt hơn?”; “Tại sao tốt mà chẳng mấy ai tha thiết tham gia?”. Đây có thể là cách hỏi để ‘làm khó’ các lý giải của người được hỏi. Việc trả lời trực tiếp các câu hỏi dạng này có thể rơi vào thế đuối lý, hay ít ra sẽ không giúp làm sáng tỏ vấn đề. Thật may… hầu hết các công ty sau cổ phần hóa (CPH) đều làm ăn tốt đẹp. Có tổng giám đốc nói thật rằng “hiệu qủa gấp đôi nhưng công sức phải gấp ba!”. Ý này như cái phao, có thể dùng để trả lời khẳng định cho câu hỏi đầu. Bởi trước khi CPH, hầu như DNNN nào cũng có băn khoăn, giống như bây giờ họ đang băn khoăn trước cánh cửa TTCK vậy. Nhưng một khi đã ‘lên xe hoa’ rồi (đã CPH) mà nay ai hỏi ‘có muốn về lại mẹ?’ (quay lại DNNN) thì chắc sẽ ‘khó nói’! “Hiệu quả gấp đôi mà công sức gấp ba” là ngay điểm rơi của mục tiêu CPH rồi, khỏi bàn! Riêng câu hỏi thứ hai quả là khó trả lời. Dù biết có một bức tường tâm lý chỗ này, nhưng không chỉ có vậy, vấn đề còn liên quan tới một thực trạng môi trường…
3.
Tại sao tốt mà các công ty không tha thiết tham gia? Do tâm lý nấn ná ở ngòai cho khỏe. Xe nào cũng được thỏai mái đón khách, thu tiền, thì vội gì đăng ký cho rắc rối? Cần gì vào tuyến điểm để bị gò bó?… Tạm ví dụ vậy để liên tưởng đến các công ty đã được thỏai mái huy động vốn công chúng. Không tham gia TTCK, các công ty này không cần kiểm tóan, không cần công khai minh bạch, không bị áp lực, được tự do làm theo ý mình… Điều này có thể chấp nhận với một thị trường ‘chưa có cơ quan quản lý của nhà nước’ về chứng khóan (UBCK), nhưng sẽ không thuyết phục khi cơ quan đầu mối vĩ mô này đã hiện hữu… Thử nghĩ nếu cơ quan quản lý nhà nước về vận tải hành khách công cộng mà chỉ có thẩm quyền đối với các xe khách “tình nguyện” đăng ký thôi thì tình hình sẽ thế nào? Vấn đề công ty cổ phần huy động vốn công chúng nhạy cảm hơn nhiều!
Các công ty “nặc danh” (socíeté anonyme de responsibilité limité) ấy rất cần sự chăm sóc trong một hành lang qui ước. Đơn giản vì họ đã huy động tiền của dân chúng vô thời hạn, còn hơn cả ngân hàng! Quản lý nhà nước về chứng khóan sẽ ngay từ hành lang này chứ không đợi đến khi niêm yết. Niêm yết là vinh dự cần phấn đấu mới có và chỉ dành cho công ty tốt qua xét chọn. Như vậy, một khi ‘trật tư được vãn hồi’ (điều chắc sẽ có) thì các ưu đãi, chiếu cố sẽ chẳng còn. Lúc ấy, sự sàng lọc đúng mực về niêm yết có thể sẽ tước đi cơ hội của nhiều trường hợp chần chừ. Và khi ‘cơ hội vàng’ không còn, công ty ta có thể mất nhiều thời gian và tốn kém hơn để ‘xin’ niêm yết. Vây nên chọn con đường hay để sẽ rơi vào ngõ vắng?!
Chỉ cần thực hiện nghiêm việc kiểm tóan bắt buộc, qui định tất cả các công ty ‘trong diện’ định kỳ phải công bố báo cáo tài chánh (trên báo) thôi thì tình hình chắc sẽ khác. Chẳng còn là chuyện xa vời vì, nên biết, tập quán này đã được thực hành khá tốt tại Sài Gòn xưa kia (trước 1975).
Huy Nam, 2004