Hội Nhập từ Tư Thế ’Nhập Hội’

Đăng ngày

Chia sẻ:

Một cách tự nhiên, không ít chúng ta vẫn có thói quen nghĩ rằng hội nhập là bắt đầu từ bên ngoài, từ các thúc ép đặt ra trong quá trình bình thường hoá hay thiết lập các mối quan hệ, đặc biệt là về giao thương. Suy nghĩ như vậy không có gì sai nhưng chưa đủ và không sâu…

Chỗ chưa đủ và không sâu ở đây tuy khó thấy lại có thể làm giảm tư thế chủ động trong hội nhập. Nếu ta xem đây là phần nền tảng tiếp nhận và chuyển tải hội nhập, thì một sự thiếu sót có thể sẽ là bất lợi tiềm ẩn. Để giải thích ý kiến này, cần thấy nhu cầu hội nhập trước tiên xuất phát từ chúng ta, từ mong muốn bên trong do ta chọn và quyết định. Sự lựa chọn và quyết định ấy đặt ra lộ trình, và cũng chính chúng ta đã cân nhắc gút lại lộ trình ấy. Nói chung, đây là nhu cầu tự thân và có sự chủ động. Thế nhưng, quá trình chuẩn bị lại thường không diễn ra tương hợp như vậy. Cả nền kinh tế (đúng hơn cả đất nước) cần hội nhập, chứ không riêng bộ phận nào, nhưng thực tế nếu Chính phủ và các doanh nghiệp trực tiếp bị tác động hay có hưởng lợi đã phải chạy thì phần lớn còn lại có vẻ ‘không vội’. Do vậy từ tư thế chủ động, dần dần có thể ta bị đẩy sang thế bị động. Nói khác đi, từ ước vọng thôi thúc bên trong, việc chuẩn bị chưa đủ và không sâu có thể đẩy ta sang thế bị thúc ép từ bên ngoài. Cảm nhận hội nhập do sức ép từ bên ngoài cứ thế đậm dần theo tiếng đếm lùi, mà nếu chậm được vận động tích cực và sâu rộng thì khả năng bất lợi sẽ như điều hẹn trước.

Hội nhập không thuần là vấn đề của doanh nghiệp hay chỉ liên quan đến các khuôn khổ đã cam kết. Vì như vậy sẽ khó tránh tâm lý ‘cần tới đâu làm tới đó’, sẽ là ít hơn chứ không đủ, khó mong sẽ nhiều hơn… Hội nhập là để có sức mạnh chứ không dừng lại ở việc được ‘nhập hội’. Yêu cầu hội nhập có áp lực như ra biển lớn, vì kể từ sau cuộc cách mạng thông tin (thập kỷ ’70) các ranh giới hữu hình theo ước lệ mặc nhiên đã nhạt dần. Thế giới bước sang thời kỳ liên lập mới với nhiều khái niệm được nhận dạng lại, đặc biệt là tư duy phát triển. Sự lệ thuộc nhau về kinh tế đang ở mức cao, qui mô toàn cầu, và việc có được thế đứng trong sân chơi ấy chính là cơ hôi phát triển của một quốc gia. Hội nhập trong bối cảnh như vậy cần có sự chuyển động toàn diện, là sự kiếm tìm tư thế đối tác lâu dài chứ không chỉ dừng lại ở hoạt động thương mại hay giao dịch. Việc phát triển đất nước lại không chỉ là trăn trở thoát nghèo mà cần thóat lên bắt kịp, cần có độ bền… Mục đích dài hơi này đòi hỏi những nỗ lực đồng bộ, triệt để, bền bĩ, liên tục và dài hạn. Muốn vậy, tinh thần hội nhập cần được ‘đồng đội’ hơn, cần kéo sâu vào các nền tảng kinh tế xã hội. Hội nhập bắt đầu từ bên trong như vậy có khả năng tạo ra nguồn lực phát triển, thúc đẩy đổi mới tốt hơn, để có cách làm hợp lý và chuyên nghiệp. Bên cạnh các ràng buộc ‘cứng’ ta phải tuân thủ, quá trình ấy đồng thời có thể giúp ta xới lên hiệu chỉnh, đặt lại vấn đề, xác định việc cần làm, cần ưu tiên… để có bước chắc hơn theo ước lệ phổ biến và kinh nghiệm đã thành công. Xin nêu ra đây ít nội dung tản mạn để cùng suy ngẫm.

Sự quanh quẩn ‘ai và ai’ (nói chung) trong nội bộ nước nhà đã và sẽ còn ảnh hưởng đến khả năng toàn dụng cho phát triển. Chỉ riêng khái niệm thành phần kinh tế đã mặc nhiên tạo ra sự phân biệt đối xử không cần thiết giữa ta với mình. Vì rằng, trong lúc ‘tây’ họ đòi ‘ta’ bình đẳng, đòi đối xử quốc gia, thì trong nội bộ ta lại chia ra ‘nhiều ta’ và có luật riêng cho từng khu vực. Tinh thần Luật Doanh Nghiệp ‘thống nhất’ (được QH thông qua vào kỳ họp cuối năm 2005) đang có nỗ lực xoá điều này để hội nhập thì thực tế nội bộ có vẻ chưa sẵn sàng. Nếu  bên nước ngoài họ muốn có một sân chơi chung, thì quá trình thảo luận ở nội bộ ta lại vẫn muốn có ba ‘góc sân’ riêng (DNNN kiến nghị chương riêng, hợp tác xã muốn giữ luật riêng). Qua nghiên cứu và trực tiếp đóng góp vào quá trình xây dựng luật này, tôi có cảm nhận rằng nếu ta không xoá vách ngăn thành phần giữa các chủ thể đầu tư trong nước thì ‘nội lực’ nước nhà có thể sẽ khó mạnh. Tại sao? Vì nội lực như vậy không phải là ‘một’ mà là các ‘một phần ba’ hay nhỏ hơn! Khả năng ‘chụm lại’ ở đây được chờ đợi sẽ kém, nên dễ là bất lợi. Ta nỗ lực hội nhập với bên ngoài nhưng trong nhà với nhau có vẻ chưa hội nhập… 

Bên trong, chúng ta cũng chưa xác định được ai là đội quân chủ lực cho mặt trận kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy, nếu DNNN được phong hàm ‘chủ đạo’ thì, ngoài vấn đề hiệu quả ít thuyết phục, đến nay DNNN vẫn cứ loay hoay tìm mô hình và chưa rõ “chủ’ là ai. (Đây là vấn đề được nhiều nhà làm luật lưu tâm, bởi việc gọi chủ là ‘toàn dân’ thì chẳng khác không chủ). Nhà nước chủ quản không ít lần lại lúng túng chuyện vai trò, lắm khi còn áy náy trước các thực tế lòng vòng, kịch tính… Ví dụ, đất là của toàn dân, DNNN thuộc quyền Nhà nước, nhưng khi Nhà nước (và nhân dân) cần thu hồi đất để lo chuyện quốc kế dân sinh thì chỗ đòi (đền bù) căng nhất có thể là DNNN… Trong lúc đó, khu vực kinh tế tư (theo lẽ thường là đội ngũ chủ lực của kinh tế thị trường) thì lại chưa được chăm lo và thao dượt đúng mực để chuẩn bị cho đường dài thử thách. Ngay như cách gọi về khu vực này cũng còn quanh co: là ngoài quốc doanh, dân doanh, dân lập, chứ chưa khẳng định là .

Nói đến yêu cầu hội nhập trong bối cảnh doanh nghiệp không thể không đề cập công ty cổ phần và thị trường chứng khoán (TTCK). Dù không mới, loại hình công ty cổ phần vẫn là sản phẩm du nhập. Chính định chế doanh nghiệp này là nguồn cung hàng chủ lực (nếu không muốn nói là yếu tố nền) cho hoạt động của TTCK. Thế nhưng việc tổ chức và thực tế vận hành công ty cổ phần ở ta thì lại chưa bắt nhịp thị trường, còn cần phải cải thiện nhiều hơn nữa thì mới có thể thu ngắn khoảng cách chưa hội nhập. Hầu hết công ty, kể cả nhiều công ty niêm yết, vẫn còn thấp thoáng cung cách tổ chức và quản lý ‘quốc doanh’, chưa thoát được não trạng điều hành nội bộ… Công ty nội bộ là loại có áo ‘cổ phần’ nhưng xác thì ‘TNHH’, người ngoài sẽ khó mà ‘nhìn’ vào được (yêu cầu minh bạch: transparency). Trong khi đó TTCK của ta hoạt động đã năm năm và ngay từ đầu đã cho nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn. Như vậy cánh cửa đầu tư tài chánh đã mở được nửa thập kỷ và điều này rất cần yếu tố minh bạch. Sẽ có người bảo rằng ‘thì đã có sao, người ta (nước ngoài) vẫn tranh mua đấy chứ’. Vâng, có thể đúng vậy. Nhưng không khó nhận ra cách đầu tư ở đây còn thiên về mạo hiểm, theo triết lý “high risk high return” (có gan làm giàu) mà nhiều  người trong họ đã bộc bạch. Tình trạng này chỉ có tính giai đoạn và chắc sẽ không dài. Vã lại, lượng đầu tư thực hiện vào buổi giao thời này cũng không nhiều và hiệu quả thực tế chưa có gì là hấp dẫn. Thật ra, việc cạnh tranh thu hút vốn hay nhu cầu huy động vốn đại chúng của các doanh nghiệp ở ta chưa có tính thị trường, nên các yêu cầu đặt ra cho doanh nghiệp như tổ chức quản trị chuyên nghiệp, lợi thế cạnh tranh, tiềm lực phát triển, tài chánh lành mạnh… chưa được chú trọng. Tới đây, khi thị trường đã như ‘chiến trường’ thì các yêu cầu này sẽ là các tiêu chí đánh giá chủ yếu trong môi trường đầu tư tài chánh. Lúc đó, nếu thiếu sự chú trọng và đáp ứng, các công ty cổ phần ở ta sẽ khó mà huy động được vốn đại chúng nói chung, chứ chẳng riêng gì các nhà đầu tư nước ngoài.

Ta lại đang nghĩ đến liên kết giao dịch (chéo), đến việc niêm yết chứng khoán ra nước ngoài… Mới nghe thì hồ hởi nhưng xem kỹ lại sẽ là không đơn giản. Việc liên kết và/hoặc kết nối giao dịch nếu không cần ‘môn đăng hộ đối’ thì cũng rất cần các yếu tố tương thích và môi trường đồng bộ. Điều này đặt ra hằng loạt yêu cầu phải chuẩn bị bổ sung hay điều chỉnh dọn đường. Trung Tâm Giao Dịch (STC) hay ngành chứng khoán (SSC) cần dọn lại cho ‘cùng hệ’ đã đành, nhiều ngành khác cũng sẽ phải hành sự nhịp nhàng thì việc ‘kết nối’ mới mong đạt được cái có qua có lại. Kinh nghiệm cho thấy sự phối hợp liên ngành như vậy ở ta lại không thể một sớm một chiều. Việc niêm yết ra nước ngoài cũng sẽ đụng tới nhiều vấn đề ‘tiêu chuẩn’ tương tự, vì đây chẳng khác ta xuất khẩu chứng khoán. Bán được hàng tiêu dùng bình thường cho ‘nhà giàu’ nước ngoài đã khó (nào ISO, an toàn, vệ sinh, lao động…) huống hồ là bán niềm tin! Công ty muốn niêm yết phải thế nào, cần gì… có lẽ ta chưa hình dung hết. Nhiều người cứ nghĩ niêm yết cổ phiếu ra ngoài chỉ đơn giản là làm thủ tục, thậm chí còn nhầm đấy là thủ tục với SSC. Chứ về cơ chế mua bán ra sao, lấy gì có mua có bán, niêm yết hay phát hành IPO hoặc DRs… thì hầu như chưa được nghĩ sâu. Tôi cho rằng dù bị nhiều áp lực, ý kiến của bà Mai Kiều Liên (Vinamilk) là đúng khi bà cho rằng việc niêm yết sẽ cần bắt đầu từ trong nước trước để “học hỏi và tích lũy kinh nghiệm”. Vâng, xem kỹ lại sẽ thấy cả vấn đề kết nối thị trường lẫn việc niêm yết ra nước ngoài chỉ có thể tiến hành trơn tru khi nào sự chuẩn bị và tập dượt trong nước đã hườm hườm. Là bởi, nếu có thể khái niệm đơn giản hội nhập là nhập hội thì việc nhập hội ở đây sẽ rất cần cần tư thế sẵn sàng. 

Một vấn đề khác từ bên trong tưởng chừng không liên quan đến lộ trình hội nhập nhưng lại có thể sẽ gây bất lợi khi hội nhập là vấn đề lương bổng. Vấn đề lớn (quá lớn) này tồn tại thâm niên như một khuyết tật bám sâu đến mức khó ‘đại phẩu’. Do mảng nhân sự chi phối bởi thang lương nhà nước (tính luôn cả DNNN) là quá lớn và đều khắp, nên gánh nặng lương lâu nay trở thành chuyện nan giải. Tuy vậy, điều bất cập cần bàn là  thực chất về cách trảvấn đề ngoài lương. Theo đó, một bộ phận không nhỏ các vị trí và chức danh (thường là cấp trưởng) đã thực sự (hay có điều kiện) được ưu đãi hơn về nhiều khoản quyền lợi vượt xa lương, nhiều trường hợp bình thường khác thì phải ‘chạy’ bằng nhiều cách để kiếm sống (trước đây thì ‘tăng gia’, nay là làm thêm, đi dạy, v.v.) – Phần phụ (hay không chính) lại thường cao hơn nhiều lần phần chính và ai chỉ có phần chính ắt sẽ khó khăn. Điều này đã thành nếp và tạo ra một thực tế chênh lệch rất lớn giữa những người hưởng lương nhà nước với nhau. Bối cảnh như vậy tự nó đã là mâu thuẫn! Từ đó mà có chuyện giữ kẽ hình thức, xuề xoà, là cái gì khác chứ không phải lương… Đây là một nguyên nhân làm cho môi trường kém minh bạch, kỷ cương hạn chế. Thực tế ấy lại nằm xen trong một toàn cảnh vận động kinh tế thị trường, thế là thị trường đã không ngại nhảy vô điều chỉnh! Hậu quả là không giữ được người, khâu nhân lực (khâu cán bộ) thường bất ổn. Một vị lãnh đạo ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu tại TPHCM đã chua chát rằng “chỗ tôi là cái lò đào tạo nhân lực cho các ngân hàng” (ý nói mất người!). Nhìn lên cao hơn, ai đó cũng đã nói ‘ở nước ngoài người ta không hiểu lương của bộ trưởng xứ mình chỉ trên dưới ba triệu thì làm sao sống?’. Nay thì trong nước bức xúc còn hơn vậy, diễn đàn Quốc Hội cũng đã từng nóng lên… Có vẻ như cái khó ở đây là do khúc hậu của việc ta xoá bao cấp chưa triệt để, là lương nhưng vẫn còn thấp thoáng tem phiếu… Vấn đề lương đối với khâu nhân sự (hay nguồn nhân lực) cũng có thể ví như vấn đề dưỡng chất với cơ thể, cho nên mức độ chăm lo sẽ rất quyết định. Vấn đề hệ trọng đến mức, đây đang được xem là nguyên nhân gây ảnh hưởng, làm xấu đi, hay thậm chí cản trở, quá trình phát triển của nhiều lãnh vực quốc kế dân sinh như y tế, giáo dục và nhiều lãnh vực kinh tế xã hội khác. Nói chung, chừng nào ‘khâu bao tử’ này chưa yên thì tư thế đội ngũ sẽ khó vững lên để sẵn sàng ‘nhập hội’.

Tới đây ta có thể thấy hội nhập rất cần động cơ tự hành chứ không phải chỉ có đầu kéo tác động. Bối cảnh hội nhập càng sâu sẽ còn cho khả năng chịu đựng tốt hơn (yếu tố bền vững) trước những cú sốc có tính đợt sóng do sự tương tác từ hội nhập gây nên. Sự vận động toàn diện trong quá trình hội nhập như vậy giúp tăng cường sức mạnh cho tư thế quốc gia. Hội nhập theo ý nghĩa tiến công này không làm mất cái riêng, ngược lại khả năng có được cái riêng mới tốt hơn trên nền cái riêng sẵn có sẽ dễ là hiện thực. Có thể gọi đây là quá trình phát triển (hay phát huy) những giá trị riêng. Nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Tân Gia Ba… nhờ hội nhập như vậy đã thủ đắc về mình thêm được nhiều giá trị rất riêng.

Huy Nam

CV kinh tế và chứng khoán, 5-2005 

(Tạp chí Chứng khoán VN, 7-2005)

 

 

 

Xem thêm bài viết