Bước tiếp theo sau một ý tưởng khởi nghiệp thông thường là câu hỏi nên chọn loại hình doanh nghiệp nào để triển khai thành lập. Lọai hình doanh nghiệp là phương tiện tải công việc làm ăn hay sự nghiệp của ta đi theo thời gian và tại một ‘không gian’ nhất định nào đó. Việc chọn lựa loại hình doanh nghiệp tuy không khó nhưng là khâu rất quan trọng, vì nó quyết định hầu hết các hoạt động kinh doanh sau này. Đặc tính mỗi một loại hình doanh nghiệp thể hiện các đậc trưng về tập quán hành xử của lọai hình đó (liên quan đến khoa học về tổ chức) thông qua sự điều chỉnh của pháp luật. Việc tiếp cận và nên chọn loại hình doanh nghiệp nào, do đó, là việc lập ra một thực thể pháp lý thích hợp với chủ trương, và có thể cả tính khí, của người (hay những người) khai lập, phù hợp với môi trường kinh tế nơi mà doanh nghiệp đó tồn tại.
Tại Việt Nam hiện nay (thời điểm 2004) ta có Luật Doanh Nghiệp, Luật Doanh Nghiệp Nhà Nước, Luật Đầu Tư Nước Ngoài, Luật Khuyến Khích Đầu Tư Trong Nước, Luật Hợp Tác Xã … Doanh nghiệp được tổ chức theo Luật nào thì sẽ theo sự điều chỉnh của Luật đó.
Tuy nhiên, để phục vụ cho yêu cầu đầu tư và khởi nghiệp, trình bày dưới đây chủ yếu chỉ bàn đến các tổ chức làm ăn theo Luật Doanh Nghiệp. Luật Doanh Nghiệp (Luật DN) được xem là đạo luật có tính khái quát cao, nhất là về phương diện tổ chức một thực thể doanh nghiệp. Đồng thời, đây cũng là đạo luật có độ phổ biến và phạm vi ứng dụng sâu và rộng nhất hiện nay tại Việt Nam. Ngòai ra, các loại hình doanh nghiệp được tổ chức theo Luật DN Việt Nam cũng khá tương đồng với cách tổ chức của nhiều nước đã phát triển trên thế giới.
Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn có hai thành viên trở lên
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) là loại công ty có nhiều người cùng sở hữu và, tuy không nhất thiết, thông thường họ cùng tham gia vào quá trình hoạt động của công ty. Đây là một thực thể doanh nghiệp có tư cách pháp nhân riêng biệt.
Người tham gia góp vốn vào công ty (chủ sở hữu), gọi là các thành viên của công ty, được ‘ẩn danh’. Các thành viên này chịu nghĩa vụ về tài chánh (khi công ty rơi vào tình trạng thua lỗ hay phá sản) chỉ giới hạn ở số tiền họ đã góp và/hoặc cam kết sẽ góp vào công ty. Chính đây là đặc điểm ‘trách nhiệm hữu hạn’. Ý nghĩa về trách nhiệm hữu hạn cần được hiểu trên căn bản khỏan tài chánh của thành viên đã nằm trong vốn điều lệ (authorized capital) của công ty nói riêng, và vốn chủ sở hữu (equity) nói chung. Đúng ra mà nói, nếu hiểu theo cách tiếp cận trực tiếp, chỉ có công ty mới chịu trách nhiệm về nợ (vì công ty đi vay nợ) và các nghĩa vụ tài chánh khác (mà công ty đã kết ước), chứ không phải là các thành viên. Đồng thờì, trách nhiệm của công ty như vừa đề cập sẽ không dừng lại trong phạm vi vốn điều lệ hay vốn chủ sở hữu mà sẽ dựa trên tòan bộ tài sản của công ty. Từ cách hiểu và làm rõ trách nhiệm của các thành viên như vậy nên khái niệm đối vốn thường được nhắc tới với lọai doanh nghiệp này. Đó là mối quan hệ dựa trên mức độ vốn góp.
Công ty TNHH trên hai thành viên, theo Luật DN Việt Nam năm 2000, cần có tối thiều là 2 (hai) thành viên và giới hạn ở mức tối đa là 50 (năm mươi) thành viên. Thành viên có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cơ cấu cao nhất về tổ chức của công ty TNHH từ hai thành viên trở lên gồm Hội đồng thành viên, là cơ cấu mặc nhiên bao gồm tất cả các thành viên góp vốn (tương tự như ‘Đại hội đồng cổ đông’ của công ty cổ phần). Hội đồng thành viên bầu ra Chủ tịch Hội đồng thành viên và cử người vào vị trí Tổng giám đốc. Mặc dù còn có lọai công ty TNHH một thành viên (rất hạn chế, sẽ được bàn trong phần kế tiếp), khi nhắc đến lọai hình công ty TNHH thì người ta thường nghĩ ngay tới lọai có từ hai thành viên trở lên. Do đó khi đọc ta sẽ tùy ngữ cảnh mà hiểu.
Công ty TNHH là loại công ty phổ biến và rất được ưa chuộng hiện nay do đặc điểm dễ thành lập, gói gọn nội bộ, trong thân quen, đồng chí hướng… Lại dễ kiểm soát do đa phần các thành viên góp vốn dễ dàng có vai trò hoặc tham gia trực tiếp vào việc điều hành công ty. Với các đặc điểm vừa kể, cùng với ưu điểm ‘trách nhiệm hữu hạn’ và việc hạn chế chuyển dịch vốn (ưu tiên chuyển nhượng cho nội bộ), loại hình công ty này thích hợp với các nhóm khởi nghiệp nhỏ, quyền lợi gắn kết đan xen, tâm huyết, cần sự đồng thuận cao, và có mong muốn đem chính sức mình gởi gắm vào sự thành đạt của công ty (nhu cầu thể hiện hay lao động vì sự nghiệp). Các công ty liên doanh (joint-venture company) ở ta hiện nay thực chất là các công ty TNHH.
Tuy nhiên, do tầm hạn (ít ra là về tổ chức) của công ty còn mang dáng dấp “nội bộ” (privately held), nó có thể đồng thời tiềm ẩn các yếu tố làm hạn chế mở rộng quy mô và phát triển đa dạng, không hoặc ít có khả năng huy động vốn lớn. Ngòai ra, do mức độ độc lập giữa thực thể pháp nhân doanh nghiệp với các thành viên góp vốn chưa được tách bạch như công ty cổ phần cũng có thể là điều làm ảnh hưởng đến đời sống lâu dài của doanh nghiệp.
Cũng cần lưu ý là công ty TNHH từ hai thành viên trở lên không có Hội đồng Quản trị, không “sản xuất” ra các sản phẩm cho thị trường tài chánh (theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khóan và TTCK của Việt Nam thì công ty TNHH có thể phát hành trái phiếu, nhưng thực tế lọai hình TNHH sẽ rất khó chạm được tới nguồn tài trợ này do nhiều nguyên nhân) nên không phải là ‘người nhà’ của thị trường chứng khoán. Các đặc trưng co dãn về giá trị vốn và khái niệm về đầu tư tài chính là không có khi ta đưa tiền vào đầu tư hay thành lập lọai công ty này. Do vậy, có thể nói đầu tư vào công ty TNHH là một dạng đầu tư trực tiếp.
Công ty TNHH một thành viên
Công ty TNHH một thành viên là công ty chỉ có duy nhất một chủ sở hữu. Chủ sở hữu này cũng có “quyền” được trách nhiệm hữu hạn như các thành viên trong công ty TNHH từ hai thành viên trở lên. Nghĩa là, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn mà họ đã cam kết bỏ vào doanh nghiệp, đó chính là vốn điều lệ công ty. Tuy nhiên điểm cần lưu ý là về trách nhiệm của công ty thì cũng chẳng khác gì lọai công ty TNHH từ hai thành viên trở lên như đã bàn ở trên.
Điểm mấu chốt ở đây, theo Luật Doanh Nghiệp Việt Nam, là các cá nhân không (hay chưa) được mở loại công ty này. Chủ thể sở hữu công ty TNHH một thành viên phải là một tổ chức. Về tổ chức, loại công ty này có thể được triển khai theo hai mô hình: Hoặc Hội đồng Quản trị và Tổng Giám Đốc, hoặc Chủ tịch Công ty và Tổng Giám Đốc.
Trước khi Luật DN được áp dụng từ năm 2000, tại nước ta không có loại hình công ty TNHH một thành viên. Ngay cả trong quá trình thông qua Luật DN (năm 1999) tại diễn đàn Quốc hội cũng còn rất nhiều ý kiến không thuận lợi xoay quanh khả năng “trách nhiệm hữu hạn” của lọai doanh nghiệp một chủ này. Chính vì vậy cho nên Luật chưa cho phép cá nhân làm chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên.
Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại công ty có đặc điểm trách nhiệm hữu hạn nhưng không giới hạn số lượng cổ đông. Thật ra, theo luật của Việt Nam, dù không giới hạn số tối đa, số cổ đông tối thiểu khi thành lập và phải duy trì là từ ba cổ đông trở lên. Như vậy ta có thể nói, nếu công ty TNHH giới hạn số người góp vốn tối đa thì công ty cổ phần chỉ qui định số người tối thiểu. Về tổ chức, công ty cổ phần luôn luôn có các cơ cấu sau:
- Đại Hội Đồng Cổ Đông. Xin lưu ý cần gọi đầy đủ là Đại Hội Đồng Cổ Đông (ĐHĐCĐ). Gọi cơ cấu này là “Đại Hội Cổ Đông” là không chính xác, ít ra về mặt luật (xem Luật DN). Đây là một cơ cấu mặc định trong tổ chức công ty cổ phần theo ước lệ khoa học chứ không đơn thuần là ‘sự kiện’. ĐHĐCĐ bao gồm tất cả các cổ đông của công ty; có nhiệm vụ, vai trò hẳn hoi được ghi trong điều lệ. Việc hành xử các quyền hạn của cơ cấu này (với tư cách chủ sở hữu) thể hiện qua các cuộc họp ĐHĐCĐ, các thủ tục giám sát, liên kết hành động trực tiếp, tham gia biểu quyết…
- Hội đồng Quản trị (HĐQT) do ĐHĐCĐ bầu ra, là cơ quan thường trực của ĐHĐCĐ, có trách nhiệm lãnh đạo quản lý công ty giữa hai kỳ họp ĐHĐCĐ. Đứng đầu HĐQT là Chủ tịch HĐQT.
- Bộ máy điều hành, trực tiếp triển khai và thực hiện mọi hoạt động theo mục tiêu của doanh nghiệp, đứng đầu là Tổng Giám Đốc (TGĐ) do HĐQT tổ chức và bổ nhiệm.
- Ban Kiểm Soát, hay kiểm soát viên (nếu công ty có từ mười một cổ đông trở xuống), chịu trách nhiệm về tính hợp pháp và hợp lý trong các hoạt động của công ty, nhất là các vấn đề về sổ sách và tài chánh.
Cũng nên có chút phân biệt về mặt thuật ngữ để vấn đề có tính minh họa hơn. Người góp vốn trong công ty cổ phần được gọi là cổ đông (shareholder), trong khi người góp vốn trong công ty TNHH được gọi là thành viên (member). Thành viên trong Hội đồng Thành viên của công ty TNHH có tính đương nhiên và chính là mọi người đã góp vốn. Trong khi đó thành viên trong Hội đồng Quản trị của công ty cổ phần có thể không nhất thiết như vậy và phải được bầu. Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý (pháp nhân) có đặc điểm về điểu hành và được tồn tại hầu như độc lập hay tách bạch với các cổ đông, ngoại trừ trường hợp có tình huống chi phối. Do tính chất vừa nói này, việc xác lập yếu tố (hay thuộc tính) đại chúng của công ty cổ phần, bằng cách quy định chi tiết các tiêu chí có tính ngưỡng, các yêu cầu về tổ chức quản lý minh bạch, để làm hành lang bảo vệ nhà đầu tư là vấn đề trở nên rất cần thiết.
Về vốn, công ty cổ phần có một cơ chế vốn linh họat. Khái niệm về vốn đối với lọai hình công ty này cần có sự tiếp cận phù hợp. Vốn của công ty khi chuẩn bị thành lập có thể chỉ cần là một con số tiên lượng. Số vốn tiên lượng này được chia thành các cổ phần. Mặc dù công ty cổ phần có thể có nhiều loại cổ phần với đặc điểm khác nhau, điều kiện tiên quyết lúc thành lập và để duy trì họat động công ty là phải có cổ phần phổ thông (common shares) làm chủ lực. Điều này đồng thời có nghĩa là chỉ có cổ đông nắm giữ cổ phần phổ thông mới có quyền quyết định các vấn đề sống còn liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của công ty.
Các cổ phần phổ thông được xem là ngang bằng về quyền lợi và nghĩa vụ, nhưng có thể khác nhau về giá trị góp vốn (theo số tuyệt đối tính bằng tiền) tùy theo thời điểm mà công ty huy động vốn vào. Nói rõ hơn, cổ phần phổ thông là một đơn vị vốn cố định (đơn vị sở hữu/capital share), nhưng nó có giá trị thay đổi theo thời gian. Đây là một trong những đặc điểm làm cho cách hiểu về vốn trong công ty cổ phần phức tạp hơn. Do vậy mà nhà đầu tư, hay cổ đông, nếu muốn có thông tin phản ánh xác thực về hiệu quả đầu tư của mình thì cần lưu ý khỏan ‘equity’ (vốn chủ sở hữu) hay vốn thực góp (vốn đầu tư/cost of acquisition) là bao nhiêu khi làm các phép tính về hiệu quả tài chánh .
Tại nhiều công ty cổ phần thành lập mới, cho dù số cổ phần dự trù (dựa theo số vốn tiên lượng) đã được tính sẵn, công ty không nhất thiết phải huy động ngay một lúc đủ số cổ phần được phép phát hành ấy. Có nhiều lý do để giải thích điều này, trong đó việc cân nhắc hiệu quả sử dụng vốn dựa trên luồng tiền hay lưu kim đầu tư (cash flow) là một lý do quan trọng. Theo tập quán tạo lập doanh nghiệp tại nhiều nước phát triển, vào giai đoạn hình thành chỉ có các cổ đông sáng lập, là những người phải đứng mũi chịu sào, mới phải cam kết mua (đưa ngay tiền đầu tư vào công ty) và nắm giữ một tỉ lệ cổ phần nhất định, dựa trên tổng cổ phần đăng ký và được quyền chào bán (authorized capital shares). Ở Việt Nam tỉ lệ này là 20% và các sáng lập viên phải giữ trong vòng ba năm (Điều 58-Luật DN). Lượng cổ phần còn lại có thể được phát hành huy động vốn tùy theo tiến độ triển khai sản xuất kinh doanh và dựa vào lịch trình phù hợp với quy định phát hành huy động vốn đại chúng và/hoặc luật lệ về chứng khoán.
Tất nhiên, các cổ đông sáng lập cũng có thể mua hết một lúc lượng cổ phần dự trù ban đầu. Hoặc cùng lúc, hay ngay sau khi thành lập, công ty có thể bán hết tòan bộ số cổ phần được quyền chào bán này ra ngòai công chúng (theo luật của Việt Nam). Tuy nhiên, thực tế triển khai công ty tại các nước đi trước trên thế giới, cũng là cách ưa thích của đa số công ty có tiềm năng và những người khởi nghiệp bản lĩnh, họ không làm như vậy. Tại sao? Vấn đề luật lệ là lý do quan trọng nhưng chưa phải tất cả…
Nếu doanh nghiệp được khởi sự làm ăn tốt thì giá cổ phần sẽ tăng lên, nhiều trường hợp tăng rất nhanh ngay sau đó. Những người góp vốn muộn hơn (mua cổ phần các đợt sau trong tổng số cổ phần được quyền chào bán) có thể phải chịu tiền cao hơn cho cùng một cổ phần. Điều này được ngầm hiểu rằng ngay sau khi thành lập, công ty cổ phần đã mặc nhiên có các sản phẩm tài chánh (gọi chung là chứng khóan). Hay có thể nói, bên cạnh các hàng hóa là sản phẩm dịch vụ theo ngành nghề họat động của mình, bản thân các công ty cổ phần cũng được xem là lọai sản phẩm có tính hàng hóa trong một thị trường khác: Thị trường đầu tư tài chánh, thể hiện qua các giao dịch cổ phiếu công ty. Các cổ đông sáng lập với vai trò tiên phong có thể gánh chịu rủi ro nhưng bù lại họ có thể thủ đắc mối lợi gia tăng vốn tiềm tàng (capital gain/unrealized gain). Khỏan này đôi khi rất lớn. Một đồng vốn bỏ ra ngày nay, để triển khai ý tưởng vào thực tế sản xuất kinh doanh, có thể tăng lên nhiều trăm hoặc vài ngàn lần trong vòng năm bảy năm tới chẳng phải là chuyện xa vời.
Theo cơ chế vận hành của lọai hình công ty cổ phần đã bàn trên đây, một công ty khởi lập nếu cần thời gian dài để triển khai đồng bộ, hoặc theo chiến lược mở rộng từ từ, thì đã có sẵn một phương thức gọi vốn linh hoạt theo yêu cầu tài trợ từng giai đoạn. Song song với thuận lợi này, nếu công ty có kế hoạch làm ăn hấp dẫn, tiềm năng phát triển tốt, thì đồng thời sẽ có thêm một vũ khí lợi thế khác, khi họ có thể nhận về nhiều vốn hơn (phát hành giá cao) mà quyền lực không bị mất nhiều hơn một (dựa trên cổ phần). Nôm na là doanh nghiệp có giá! Đây là một mối lợi hấp dẫn hay có thể nói là phần thưởng của công ty dành cho những người tiên phong. Việc biến động chủ sở hữu (cổ đông) trong công ty cũng có thể diễn ra liên tục sau đó (qua giao dịch thứ cấp). Nhưng theo kinh nghiệm lịch sử sự biến động ấy không ảnh hưởng gì nhiều đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp, ngược lại, nhìn chung đó hầu như còn là yếu tố tích cực.
Các đợt bán cổ phần của một công ty để thu nhận vốn về sau, nếu giá có tăng lên so với ‘mệnh giá’ ban đầu (lúc bán cho các cổ đông sáng lập) sẽ làm cho số vốn tiên lượng lúc thành lập (số tuyệt đối tính bằng tiền) bị lạc hậu đi. Lý giải này cho thấy, vốn góp thực sự của các cổ đông vào công ty cổ phần thường không thể xác định ngay trên các văn kiện thành lập, nghĩa là không thể ghi một số tiên cứng ngay trên bản điều lệ. Các thông tin về vốn thực góp (hay vốn góp đủ), vì vậy, chỉ có thể được ghi nhận xác thực trên sổ sách kế toán và trong sổ cổ đông công ty. Bên cạnh đó, trên các giấy tờ giao dịch hoặc để thông tin, công ty cần ghi chính xác số “vốn góp đủ” (paid-up capital) để giới thiệu về công ty mình ra ngòai theo yêu cầu minh bạch.
Do cơ sở để xác định trách nhiệm và quyền lợi của người góp vốn (cổ đông) trong công ty cổ phần được dựa trên cổ phần, ta có thể xem cổ phần là một đơn vị hằng số để làm nền (làm chuẩn) cho các quan hệ về cổ đông. “Hằng số” này cần được chứng nhận. Vốn bằng tiền tùy thuộc vào giá trị thực góp, là biến số được ghi nhận sau và sẽ còn được cập nhật. Minh họa này giải thích rõ hơn lý do tại sao trên điều lệ công ty cổ phần (là văn kiện nền tảng khai lập công ty) yếu tố sở hữu bằng lượng cổ phần cần được thể hiệnthay vì là số vốn bằng tiền (vốn điều lệ). Cụ thể, về mặt quản lý nhà nước, vấn đề môi trường đầu tư an tòan và sự minh định trong quan hệ tài sản mới là những thứ cần được chú trọng xác lập, cần được chứng nhận, chứ không phải là khái niệm ‘quản lý vốn’ bằng tiền như cách làm trước đây mà nay đã lỗi thời . Việc xác định lượng cổ phần được quyền chào bán và phải góp đủ (cam kết mua ngay của các cổ đông sáng lập) mới là những thông tin hay bằng chứng có giá trị căn cứ. Đây cũng là một cơ sở để cơ quan chức năng chuyên ngành của nhà nước, ví dụ Ủy Ban Chứng Khóan Nhà Nước, thực hiện việc tổ chức quản lý họat động phát hành cổ phiếu một cách rạch ròi, theo quy định nội bộ hay phát hành ra công chúng. Rất tiếc, ở ta do chưa nhận ra điều này nên cách thực hành đang còn theo quán tính cũ đối với một định chế du nhập rất cần có qui ước đồng bộ.
Tuy lọai hình công ty cổ phần có tính ưu việt và nhiều lợi điểm, việc tổ chức, quản lý hoạt động và các mối quan hệ lại khá phức tạp. Có thể nói, đây là loại hình phù hợp cho các doanh nghiệp có hướng phát triển tầm cỡ, không gian hoạt động rộng, nhu cầu vốn lớn và cần độ co dãn, có quy ước hay chủ trương họat động minh bạch, theo xu hướng ‘nặc danh’ với mong đợi sẽ tồn tại lâu dài hay vô hạn định… Doanh nghiệp nào chưa có các mục tiêu rõ ràng như vậy thì không nên là công ty cổ phần. Nhất là với các doanh nghiệp có kế họach bảo thủ, khởi điểm về vốn khiêm tốn, sản phẩm hay thị trường hạn chế, cần sự kề vai chung sức hay yếu tố đồng thuận cao…
Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là một hình thức tổ chức doanh nghiệp lai tạo giữa doanh nghiệp tư nhân và công ty. Thật ra theo lịch sử hình thành, đây là loại công ty có đặc tính để cải thiện loại hình doanh nghiệp tư nhân về phương diện sẻ chia gánh nặng trách nhiệm, có điều kiện mở rộng quy mô hoạt động, huy động thêm các nguồn lực sản xuất kinh doanh, trong đó có tay nghề và vốn. Mặt khác không kém phần ý nghĩa, loại hình doanh nghiệp này còn đáp ứng được các yêu cầu pháp lý ràng buộc về trách nhiệm hành nghề đối với một số lãnh vực đặc biệt như luật sư, kiểm tóan, tư vấn thiết kế, giám định…
Công ty hợp danh cần có ít nhất là hai thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh này thường là những người có chuyên môn cao, có tay nghề hay năng lực đặc biệt, để đảm đương lãnh vực sản xuất kinh doanh mà công ty đang theo đuổi. Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ và nghĩa vụ về tài sản khác mà công ty có can dự vào.
Vào thời buổi khai sinh ra lọai hình doanh nghiệp hợp danh người ta chỉ mới biết đến lọai công ty hợp danh thuần túy (general partnership). Nghĩa là trong công ty chi có các thành viên hợp danh trách nhiệm vô hạn, là đối nhân hòan tòan và liên quan trách nhiệm. Về sau, do nhu cầu vốn phát triển trở thành vấn đề nan giải đối với nhiều công ty dạng này, yêu cầu mở khóa cho vấn đề đã được đặt ra và lọai doanh nghiệp hợp danh hữu hạn có dịp ra đời. Trong một công ty hợp danh hữu hạn (limited partnership), ngoài loại thành viên hợp danh (chịu trách nhiệm vô hạn) còn có thêm các thành viên góp vốn. Đây là hình thức bổ sung cho nhu cầu tài trợ trực tiếp bằng vốn riêng, làm nhẹ bớt một điểm yếu cơ bản của công ty hợp danh thuần túy chỉ với các thành viên hợp danh “có tài nhưng lại thiếu tiền” rất thường thấy. Các thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trên số tiền đã góp vào công ty. Sau khi vấn đề tiền-tài trong công ty đã ổn thỏa thi việc làm ăn bằng con đường hợp danh xem ra cũng rộng thóang và bền vững hơn.
Công ty hợp danh có điều lệ hoạt động riêng. Đây là văn kiện khung chi phối về việc thành lập, tổ chức, hoạt động, quyền lợi, quyền hạn… của công ty và các thành viên theo từng loại. Theo Luật DN Việt Nam thì công ty có hội đồng thành viên gồm tất cả các thành viên hợp danh. Việc phân chia nhiệm vụ điều hành họat động hằng ngày của công ty được tiến hành đồng thuận hay thu xếp giữa các thành viên. Đối với những vấn đề lớn về quản lý, chủ trương chiến lược, các quyết nghị bước ngoặt hay có tính định đoạt, thì các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau. Tại Việt Nam, cho dù loại công ty này đã được chế định theo Luật DN (năm 2000) nhưng cho đến nay (thời điểm 2004) đây là loại hình doanh nghiệp hầu như rất hiếm thấy trong nền kinh tế. Sở dĩ có tình trạng này là do ở ta các quy định có tính hành lang để bổ sung tương thích với Luật DN, ràng buộc các yêu cầu về tổ chức hành nghề đối với các lãnh vực đặc biệt hoặc nhạy cảm, theo tập quán của thế giới, chưa được xác lập rõ và đồng bộ.
Công ty hợp danh là loại công ty đặc biệt thích hợp cho các hoạt động mà những người chủ có tay nghề muốn tự đứng ra thành lập doanh nghiệp, tự quản việc điều hành và trực tiếp phục vụ kinh doanh. Ví dụ, nhiều bác sĩ cùng đứng ra lập một phòng khám đa khoa hay nhiều kiến trúc sư/kỹ sư cùng mở công ty tư vấn thiết kế…
Một lưu ý quan trọng: Công ty Cổ phần Hợp danh – Joint-Stock Comany
Dựa vào lịch sử hình thành tổ chức doanh nghiệp và theo nghiên cứu khoa học về lãnh vực này, sự phát triển từ hình thái hợp danh sang công ty cổ phần như ngày nay thật ra còn có một lọai hình quá độ với hình thái ‘hợp danh cổ phần’.
Theo hình thái này, công ty được thành lập dựa trên cơ sở cổ phần (shareholding) do nhiều người chung phần (partnership) đứng ra thành lập và duy trì họat động. Nói rõ hơn, thay vì ‘hợp danh’, vốn của công ty được chia ra thành nhiều đơn vị sở hữu bằng nhau gọi là cổ phần (shares). Tuy các ‘đơn vị sản phẩm vốn’ đã được tạo ra như vậy, cổ đông trong công ty vẫn còn bị ràng buộc như ‘thành viên hợp danh’. Họ có quyền lợi hay quyền hạn căn cứ trên lượng cổ phần mà họ nắm giữ, nhưng phải chịu trách nhiệm vô hạn (theo tỷ lệ sở hữu) đối với các khỏan nợ và nghĩa vụ tài sản khác do công ty can dự và cam kết.
Khởi thủy, việc chuyển nhượng cổ phần của lọai công ty này có kèm theo điều kiện và thường chỉ hạn chế trong phạm vi nội bộ. Về sau, vấn đề có được nới lỏng và việc giao dịch chuyển nhượng được tự do hơn. Riêng nghĩa vụ về ‘trách nhiệm vô hạn’ thì vẫn không có gì thay đổi và mặc nhiên được chuyển qua cho cổ đông mới một cách đồng thời. Chính cái ‘vòng kim cô trách nhiệm vô hạn’ này là trở ngại chính làm hạn chế khả năng phát triển lọai hình công ty cổ phần hợp danh, do đó nó đã được cải tiến triệt để một lần nữa để lột xác thành công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn như ngày nay. Lọai công ty cổ phần hợp danh, tiếng Anh-Mỹ gọi là joint-stock company, có thể được xem là tiền thân của lọai công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn hiện đại (corporation hay limited company). Sau khi hòan thành nhiệm vụ lịch sử, ngày nay lọai hình ‘joint-stock company’ hầu như không còn được sử dụng nữa. Sở dĩ vậy là vì người ta đã phát triển được lọai ‘limited partnership’ và ‘corporation hay limited company’ thuận tiện hơn và có tính lý giải hơn cho từng bối cảnh tổ chức doanh nghiệp.
Điểm cần lưu ý, việc tổ chức công ty cổ phần theo tinh thần Luật DN Việt Nam là dạng công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn. Do đó khi sử dụng tiếng Anh để diễn đạt ta nên dùng thuật ngữ ‘corporation’ hoặc ‘limited company’. Nhiều nơi dùng ‘joint-stock campany’ là không chính xác và dễ gây nhầm lẫn, vì ở ta không có chế định lọai công ty cổ phần hợp danh này.
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là loại doanh nghiệp chỉ có một cá nhân làm chủ. Đây có lẽ là lọai hình tổ chức làm ăn cổ xưa nhất. Chủ doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ bằng toàn bộ tài sản của mình.
Tuy phải chịu trách nhiệm vô hạn, doanh nghiệp tư nhân vẫn phải khai lập việc đăng ký vốn, và được theo dõi quản lý các vấn đề về tài chánh và vốn kinh doanh theo luật định. Điều này mang ý nghĩa công hệ (cần sự rõ ràng, minh bạch) để đảm bảo tốt môi trường làm ăn chung và yêu cầu lành mạnh về mặt xã hội. Việc điều hành doanh nghiệp có thể theo cách trực tiếp từ người chủ sở hữu, hoặc ông ta có thể thuê người thay mình để đảm nhận khâu quản lý kinh doanh (thuê Giám đốc). Tuy nhiên, trong mọi trường hợp liên quan đến pháp lý về tranh chấp hay kiện tụng thì chủ doanh nghiệp là người có nghĩa vụ và chịu trách nhiệm trực tiếp. Chủ doanh nghiệp tư nhân luôn là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Dù có vẻ khiêm tốn, doanh nghiệp tư nhân vẫn là loại được nhiều doanh nhân ưa thích và tồn tại mạnh. Sỡ dĩ vậy là nhờ các ưu điểm như dễ thành lập, quyền tự chủ tuyệt đối, việc tổ chức và quản lý gọn nhẹ, có thể làm quyết định nhanh, xoay trở lẹ…
Có một loại hình làm ăn khác na ná như doanh nghiệp tư nhân, và rất dễ lẫn lộn với lọai hình doanh nghiệp tư nhân, là hộ kinh doanh cá thể. Hộ kinh doanh cá thể có vẻ gần với doanh nghiệp tư nhân về tư cách và việc triển khai làm ăn, nhưng có mấy điểm khác cơ bản (theo pháp luật của Việt Nam) là: Chỉ kinh doanh tại một địa điểm cố định; không thường xuyên thuê lao động (chỉ thuê theo yêu cầu thời vụ); không có con dấu riêng; và được đăng ký kinh doanh tại cấp huyện.
Theo các nội dung đã trình bày và phân tích trong các phần trên, căn cứ theo tinh thần của Luật DN Việt Nam, thì chỉ có công ty TNHH (loại hai thành viên trở lên và loại một thành viên) và công ty cổ phần là các lọai doanh nghiệp có pháp nhân độc lập với người góp vốn và có đặc điểm trách nhiệm hữu hạn đầy đủ. Đây là lọai doanh nghiệp có đặc tính đối vốn. Các công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể, không có sự phân biệt về nghĩa vụ giữa các cá nhân kinh doanh và doanh nghiệp, nên trách nhiệm của các cá nhân đứng ra làm ăn là vô hạn; các loại sau này gọi là doanh nghiệp đối nhân (ngoại trừ thành viên góp vốn trong công ty hợp danh). Tuy nhiên, cũng cần hiểu rõ rằng thuộc tính trách nhiệm hữu hạn áp dụng trong họat động doanh nghiệp chỉ có ý nghĩa đối với người góp vốn (các thành viên hay cổ đông) chứ không phải là thứ vỏ bọc để “bảo vệ” công ty trước các nghĩa vụ về nợ và tài sản. Vậy có thể nói các “pháp nhân” công ty luôn chịu trách nhiệm vô hạn.
Mặt khác, trong diễn đạt khi người ta gọi ‘doanh nghiệp’ hay ‘xí nghiệp’ (thuật ngữ được chuyển hóa từ ‘business’ hay ‘enterprise’ của người Anh/Mỹ) là cách gọi chung cho các tổ chức làm ăn. Còn hình thức tổ chức, pháp lý tổ chức, luật điều chỉnh thế nào, là vấn đề định dạng, đặt tên của mỗi khung luật theo từng không gian kinh tế khác nhau. (Ta gọi là không gian kinh tế chứ không phải là quốc gia, vì một quốc gia có thể có nhiều không gian kinh tế khác nhau, điển hình là trường hợp các bang ở Mỹ hay Ấn Độ). Ý vừa đề cập muốn nói đến các lọai hình doanh nghiệp như ta đã bàn, tức là các ‘phương tiện có đăng ký lưu hành’, có tư cách và trách nhiệm trực tiếp trong hành xử kinh doanh, trong quan hệ và định đọat tài sản. Nói chung, đó là những anh chàng có tóc! Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu về tổ chức công ty, quá trình xây dựng luật lệ, hay đơn giản để hiểu đúng vấn đề khi ra làm việc, ta cần tham khảo sâu hơn các định chế doanh nghiệp theo hướng tiếp cận khoa học, với các ước lệ đã phổ biến. Điều này giúp ta có cái nhìn tách bạch về bối cảnh hoạt động kinh doanh và đối tượng nào là lọai “có tóc” đang trực tiếp tham gia vào sân chơi doanh nghiệp, tránh được ngộ nhận giữa một bên là tổ chức có tính thực thể pháp lý kinh doanh với một bên là tổ chức có tính đầu mối quản lý hay chi phối. Chẳng hạn như khái niệm Tông-công-ty, Mẹ-con, các Liên-hiệp… ở ta. Hoặc ‘Parent company’, ‘Conglomerate, ‘Cartel’, ‘Trust’, ‘Group’… ở xứ người. Nói tóm lại, vấn đề có liên hệ đến khái niệm rất cơ bản trong tổ chức doanh nghiệp là quan hệ sở hữu, tài sản và trách nhiệm dân sự. Đây là khái niệm thuộc về định chế doanh nghiệp trong họat động nghiên cứu định chế và tổ chức kinh doanh.
Một cách tự nhiên, việc khởi nghiệp trong họat động kinh tế kinh doanh cho ta sự liên tưởng trực tiếp đến quá trình gầy dựng một lọai hình doanh nghiệp nào đó để triển khai. Nghĩa là phải đi từ abc… Có vẻ như phải vậy mới ‘oai’ và được tôn vinh. Tuy nhiên, đó chỉ là cách tư duy lối mòn hay phiến diện trong một nền kinh tế thị trường chưa phát triển. Là vì họat động khởi nghiệp không nhất thiết phải làm từ đầu và làm hết tới đuôi như vậy. Đừng quên rằng ngày nay ngay tại Việt Nam ta đã có thể “tậu” một cơ ngơi hay cơ hội làm ăn có sẵn bằng nhiều hình thức khác như thuê, mua, hợp đồng nhượng quyền, và các hình thức thủ đắc thông qua khả năng chi phối hay kiểm sóat. Kể cả việc bắt đầu trên các thị trường tài chánh, chứng khóan, như cách làm đã phổ biến trên thế giới, mà khi nhắc đến các điển hình thành công thì tên tuổi Warren Buffett lập tức xuất hiện.
Có điều cần lưu ý rằng chìa khóa cho một quyết định thành công là sự hiểu biết và bản lĩnh, chứ không có con đường nào đơn giản, ngọt ngào.