Những rút tỉa từ suy thoái toàn cầu – Vấn đề nhận diện và ứng xử

Đăng ngày

Chia sẻ:

Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh thế giới năm 2008 đã tác động xấu đến hoạt động kinh tế trong nước là điều không còn cần bàn cãi. Khủng hoảng đặt ra nhiều vấn đề cần ứng phó và giải quyết thì đã rõ. Nhưng điều gì là vấn đề của Âu Mỹ lại có thể không hay chưa phải là của ta. Các vấn đề lớn như thất nghiệp, tiêu dùng, địa ốc hay chứng khoán, v.v… ở ta có thể khác. Việc nhìn ra được vấn đề là bước quan trọng, cách ứng phó hay giải pháp cũng bắt đầu từ đó.

Vấn đề lao động và thất nghiệp

Có thể hiểu công nhân, viên chức, nói chung là người lao động làm thuê. Ở các nước công nghiệp phát triển họ là những đơn vị cung ứng nhập lượng (input, là một trong bốn yếu tố sản xuất /factors of production: đất đai, lao động, vốn, chất xám quản trị), với “nguyên liệu” là nguồn lực chuyên nghiệp chuyên ngành (human resourses) cho các tổ chức hay hệ thống kinh tế. Nền kinh tế công nghiệp hóa càng cao thì người làm việc càng cần có tay nghề chuyên biệt, được phân công cao, tình trạng sinh kế của họ mặc nhiên dựa vào công việc và nghề nghiệp đặc thù do đó cũng có sự lệ thuộc cao. Đặc điểm gắn kết hệ thống này làm cho bất cứ một diễn biến suy thoái kinh tế nào cũng lập tức đẩy một bộ phận người lao động vào chỗ khó khăn bế tắc.

Khi công suất cỗ máy kinh tế giảm thì việc làm sẽ thiếu, người làm việc bị dôi ra, sinh kế dừng lại, nhưng cuộc sống của họ thì không thể dừng lại. Thất nghiệp do đó đối với họ như tai họa, là điều khủng khiếp…

Nói tóm lại, thất nghiệp nặng tại các nước công nghiệp phát triển là tình trạng người lao động không thể hay không biết làm việc gì khác, không có việc khác để làm, là ngồi nhà. Tình trạng bị mất chỗ dựa kinh tế này đồng nghĩa với việc họ bị đẩy ra ngoài xã hội. Nếu kể thêm tập quán ‘xài trước trả sau’ theo văn hóa ‘hiện sinh’ ở Âu Mỹ (ít chú trọng việc cần kiệm tích lũy hay dành dụm riêng để phòng xa) thì thất nghiệp đối với các nước này là vấn đề lớn, có khi rất lớn và nan giải. Thật vậy, thất nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu dùng. Tiêu dùng (giảm) ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ. Sản xuất kinh doanh dịch vụ (giảm) sẽ tiếp tục ảnh hưởng xấu đến tình trạng công ăn việc làm… Đây như cái vòng luẩn quẩn, biểu hiện nhạy cảm trên các ‘hàn thử biểu’ thị trường. Cụ thể, bất chấp các dấu hiệu kinh tế tích cực được công bố trước đó, thị trường chứng khoán Mỹ ngày 2-7-2009 đã giảm sâu đến hơn 212 điểm DJIA khi có thông tin các doanh nghiệp đã cắt giảm tổng cộng 467.000 việc làm trong tháng Sáu!

Ở ta có khác. Nền kinh tế chỉ mới ở giai đoạn chuyển đổi, công nghiệp còn ở mức thấp, cơ cấu nông nghiệp nông thôn chiếm phần lớn (70%), tiểu thủ công nghiệp và kinh tế gia đình phổ biến. Người lao động, đặc biệt là công nhân và người làm việc chân tay, có thể chuyển dịch công việc dễ dàng. Với cuộc sống đơn giản, nhu cầu không cao, đa số họ lại là những người đi ra từ các vùng quê, tuy làm việc tại các thành phố hay khu công nghiệp, cuộc sống của họ nhìn chung vẫn gắn với quê nhà, kinh tế gia đình vẫn còn là chỗ dựa. Thất nghiệp với nhiều người Việt Nam do vậy có thể nhẹ nhàng hơn. Họ sẵn sàng về quê, phụ việc nhà, quay lại với công việc ruộng đồng hay thủ công mỹ nghệ khi bị mất việc. Có thể nói khả năng tự xoay xở và thích ứng của người Việt rất cao.

Nói vậy không có nghĩa ta xem nhẹ các yêu cầu về chính sách, không chú trọng điều chỉnh linh hoạt các hoạt động kinh tế đáp ứng và thích ứng (để giảm nhẹ khó khăn cho người lao động, hóa giải tình trạng thời vụ hay điều hòa nhu cầu lao động). Ta sẽ bàn một phần nội dung này ở phần sau.

Khả năng tự xoay xở và thích ứng cao của người lao động cho thấy tình hình thất nghiệp ở ta (và ngay như ở Trung Quốc là nước có sự tương đồng) vào đầu năm 2009 dù cũng khá cao nhưng không quá căng thẳng. Đây là một thực tế có thể “đo” được. Cụ thể, trong hơn ba tháng đầu năm sau Tết Kỷ Sửu, số công nhân trở lại làm việc tại nhiều doanh nghiệp may và công trường xây dựng chỉ còn khoảng một nửa. Thậm chí nhiều nơi chỉ còn non một phần ba, bởi trước khi nghỉ Tết họ đã biết tình hình… Một chủ doanh nghiệp may thuộc loại khá, có xưởng tại Bình Thạnh và Quận 9, nửa than nửa mừng rằng không ngờ ra Tết các em trở lại làm việc chỉ khoảng một phần ba. Và khác với mọi năm, năm này anh không dám đưa xe về các tỉnh để đón công nhân lên. Anh cho vậy là ‘cũng hay’, vì vào thời điểm đầu năm, đơn hàng của anh chỉ còn khoảng một phần ba so với năm trước.

Tạm quên chuyện tốt xấu, thực tế ‘tự xử’ như vậy thật ra không chỉ có ở các giai đoạn khủng hoảng, mà đã trở thành điều bình thường đối với người lao động Việt Nam, đặc biệt là trong các ngành có độ thâm dụng lao động cao và khi thị trường ảm đạm. Sự cần cù và sẵn sàng chấp nhận xoay xở trong khó khăn để sống là thực tế khác của người Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Cho nên, không khó để nhận ra rằng, ngay đối với người Việt hải ngoại, ngoài sự thành công làm sống dậy những địa danh như Orange County ở Mỹ hay Cabramatta ở Úc, hoạt động kinh tế gia đình và loại kiếm tiền mặt (như may mặc, làm nail, buôn bán và sửa chữa nhỏ) của bộ phận cư dân này luôn tồn tại ở xứ người. Đồng thời, đây cũng là chỗ dựa của nhiều người khi chẳng may thất nghiệp.

Có thể nói, nếu vấn đề thất nghiệp ở Âu Mỹ là vấn đề liên quan đến mức độ toàn dụng hay khiếm dụng (underemployment), thể hiện qua các chỉ số thuộc loại kinh tế, thì tại Việt Nam, và các nước đang phát triển khác, vấn đề có thể được hiểu là sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này đồng hướng theo quá trình phát triển đô thị và công nghiệp, nhưng có thể thay đổi hay chuyển hướng ngược lại dễ dàng khi tình trạng kinh tế các vùng miền được cải thiện,.hoặc chỗ làm bị khó khăn, không còn hấp dẫn.

Khả năng ‘tự xử’ của người lao động là tốt, nhưng cùng lúc đó có thể lại là điều khó khăn tiềm ẩn cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. Trường hợp thiếu hụt lao động diễn ra tại nhiều khu công nghiệp phía Nam một thời gian ngắn sau đó (nửa sau năm 2009) là một ví dụ khá kịch tính.

Có thể thấy, không lâu sau sự lo ngại thất nghiệp với các thông tin dồn dập về tình trạng cắt giảm lao động gia tăng vào cuối 2008 và đầu 2009, từ tháng 6-2009 nhiều doanh nghiệp sản xuất đóng tại các khu công nghiệp ở Bình Dương và Đồng Nai bỗng thiếu lao động nặng. Các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh thu hút, làm cho chi phí thuê lao động (tiền lương) có nơi tăng đột biến. Nguyên nhân do tình hình sản xuất và xuất cảng tại nhiều doanh nghiệp được cải thiện sớm hơn dự liệu làm nhu cầu lao động tăng nhanh, trong khi cung lao động không đáp ứng kịp. Chỉ riêng bối cảnh việc làm, có thể nói tháng 6-2009 ở Việt Nam trái ngược tháng 6-2009 ảm đạm ở Mỹ vậy! Và đây là một đặc điểm khác nữa (thiên về tình huống) cần được ghi nhận khi ta nhận dạng và thẩm định một thực trạng, cụ thể là tình trạng thất nghiệp ở một nước.

Đặc điểm thực trạng lao động được phân tích trên đây cũng cho thấy một vấn đề kinh tế khác. Đó là, trong một nền kinh tế mà hoạt động sản xuất còn nặng thâm dụng lao động với nguồn nhân công rẻ, tay nghề không cao, lại có thể tiềm ẩn các rủi ro liên quan đến ổn định nói chung.

Vấn đề sản xuất và tiêu dùng

Ở Mỹ và nhiều nước phát triển khác, tiêu dùng co cụm nói chung, đặc biệt trong một thời gian dài sau khủng hoảng 2008, đã gây ảnh hưởng dây chuyền đến hằng loạt hoạt động kinh tế khác, từ ngành bán lẻ đến các lãnh vực sản xuất, xuất nhập cảng, vận chuyển hàng hải, ngân hàng… Bởi tiêu dùng là lẽ sống của hoạt động sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định cho toàn cục kinh tế tại các nước có thị trường phát triển cao.

Giữa một thời buổi ảm đạm, chỉ cần động thái tiêu dùng có dấu hiệu tăng là bối cảnh kinh tế như được hững sáng. Cụ thể như ngày 27-5-2009, ngay sau khi thông tin lạc quan về tâm lý tiêu dùng (consumer sentiment) của dân Mỹ được loan đi thì chỉ số DJIA đã tăng gần 200 điểm. Ở phương tây, tiêu dùng đã ở mức cao và có độ nhạy cũng cao. Cơ cấu nhu cầu cao và tập quán tiêu dùng là những yếu tố dẫn dắt nhiều hoạt động kinh tế. Chẳng hạn, yêu cầu về tiện nghi cao làm cho nhiều mặt hàng có thể được xem là xa xỉ đối với các nước đang phát triển thì đối với họ là nhu yếu. Họ không lo nhiều cái ăn cái mặc, mà lo cho chiếc xe riêng, xe phải mạnh, to và tiện nghi. Bên cạnh đó là nhu cầu nghỉ ngơi, mua sắm… Vào thời buổi khó khăn thì khác. Việc cắt giảm chi tiêu buộc họ phải tính lại một ‘consumer sentiment’ khác: Đi xe chung, không cần xe to, xe mạnh, và điều này làm cho những công ty sản xuất xe hơi, đặc biệt là các hãng sản xuất xe công suất lớn, đắt tiền, bị ảnh hưởng ngay. Ngành sản xuất xe hơi ở Mỹ và nhiều nước khác lao đao rất sớm sau cơn khủng 2008 là do vậy.

Một đặc điểm khác liên quan đến cơ cấu nhu cầu và tập quán tiêu dùng là việc ‘xài trước trả sau’. Cùng với các cơ chế tài chánh vi vĩ mô có tính khuyến khích (đôi khi bị cho là quá dễ dãi), việc xài trước trả sau có ý nghĩa ‘kích cung’, đã từng giúp cho nhiều ngành kinh tế phát triển. Nhưng khi khủng hoảng, tập quán tiêu dùng này lại có khả năng nhận chìm hay làm sâu sắc nhiều ngành kinh tế đã được chính nó ‘kích’, mà trước tiên là ngành ngân hàng. Điều đáng lưu ý ở đây là tình trạng xài trước trả sau quá đà đến mức được xem là cẩu thả, với sự đáp ứng liều lĩnh không kém của lãnh vực tín dụng, được tiếp sức hay cổ xúy có hệ thống, đã treo tất cả vào cùng sơi dây rủi ro. Tình trạng vung tay quá trán ở đây ngay lúc bình thường, chỉ cần tiêu dùng sụt giảm vì một lý do nào đó, nền kinh tế cũng có thể lâm vào khó khăn, chứ không đợi đến khủng hoảng. Những điều vừa nói (cơ cấu nhu cầu và tập quán tiêu dùng) tuy chưa phải là tất cả nhưng là những vấn đề lớn, nổi cộm và có tính đại diện cho một tình trạng kinh tế đã phát triển cao đến mức nhạy cảm.

Ta hãy xem vấn đề tiêu dùng ở Việt Nam thế nào. Có thể nói ngay rằng, dù không nằm ngoài tầm ảnh hưởng của cơn bão toàn cầu, trong thời gian qua, kể từ cột mốc bùng nổ suy thoái kinh tế thế giới là tháng 9-2008, tình trạng tiêu dùng ở Việt Nam hầu như không suy giảm. Tiêu dùng không phải là vấn đề lo ngại như nhiều nước trên thế giới. Quả thật, hầu hết khách nước ngoài đến Việt Nam, nếu chỉ quan sát sinh hoạt, họ đều nói “không thấy có khủng hoảng ở đây”. Kể cả Michael E. Porter, ông tổ của học thuyết cạnh tranh toàn cầu, trong chuyến du thuyết tại Việt Nam vào cuối năm 2008 cũng nói vậy. Ngược lại là khác, trước tháng 10-2008, do lạm phát cao, giá cả leo thang nên ai cũng dè xẻn. Khi thị trường ‘hạ nhiệt’ người dân đã lại nhiệt tình mua sắm. Cũng cần lưu ý, cho dù thị trường địa ốc trong nước cùng thời gian có sự trầm lắng, kéo theo việc tồn đọng một số loại vật tư hàng hóa như xi măng, sắt xây dựng,… nhưng điều này không có mối liên hệ nào rõ ràng với tình hình của thế giới, mà chủ yếu là do bị tác động từ các biến động nội tại, do lạm phát, giá vật liệu tăng cao trước đó…

Cơ cấu tiêu dùng của người Việt Nam lại rất đơn giản, có thể nói còn ở mức cơ bản, thậm chí là không được khuyến khích đối với nhiều mặt hàng ‘chuẩn nhu yếu’ (không khuyến khích) như xe hơi, máy điều hòa không khí… Xét về cơ cấu nhu cầu và giai đoạn phát triển, có thể nói tiêu dùng trong nước như người trẻ đang lớn, rất sung sức, thèm ăn và đang có nhu cầu nạp năng lượng cao (sức mua cao – và đây là chỗ được các công ty phân phối hay bán lẻ nước ngoài để mắt). Điều này hoàn toàn khác với tình trạng biếng ăn, kén ăn hay kiêng ăn của những thể trạng (nền kinh tế) đã no đủ, béo phì, hay vì khó khăn nay buộc phải tiết giảm các món sơn hào hải vị…

Phân tích sâu vậy để thấy bịnh nào thuốc nấy, và việc kê toa bốc thuốc sẽ còn tùy cơ địa. Việc nhận dạng vấn đề thực là bước vô cùng quan trọng. Rất tiếc việc này trong thời gian qua có vẻ còn phân tán, chỉ bàng bạc và dừng lại ở một số bậc thức giả, trên một số diễn đàn… Một khi vấn đề chưa thực sự được đúc kết thì giải pháp hay biện pháp ứng phó sẽ khó đem lại kết quả mong đợi. Cũng vậy, các ‘bài thuốc tây’ dù có liều cao mà không đúng bệnh, không hợp cơ địa thì cũng khó giúp tình hình cải thiện nhanh. Có thể khẳng định, dù cùng bị ảnh hưởng suy thoái toàn cầu, ở ta không có vấn đề suy giảm tiêu dùng, ít ra là vào thời điểm so sánh tương ứng với thế giới ngay sau khủng hoảng 2008. Ở bên tây tiêu dùng co cụm, hàng loạt các thị trường khê đọng nên người ta kích cầu. Ở ta tiêu dùng đang sung, thị trường đang sức lớn, mà ta cũng kích cầu thì rất dễ nuôi hàng Thái Lan hay Trung Quốc. Lẽ ra lúc này ta kích cung thì sẽ hợp lý hơn. Nhưng không phải và không thể kích cung đơn giản.

Chiến lược sản xuất, việc hoạch định và phân bổ nguốn lực hợp lý và tối ưu (vấn đề phân vùng và/hoặc tập trung), là những vấn đề không thuần tài chánh, là thứ vượt tầm doanh nghiệp. Doanh nghiệp không tự làm được nhưng sẽ làm được bằng các phương thức có tác nhân chính phủ. Lấy ví dụ trong ngành xe hơi, thay vì chỉ đưa ra lộ trình và tỉ lệ nội địa hóa một cách hành chánh quá đơn giản, nếu chính phủ ngồi lại với doanh nghiệp, chọn ra các chi tiết hay bộ phận cụ thể mà trong nước có điều kiện, khả năng và lợi thể sản xuất cho hoạt động lắp ráp tại chỗ (và để xuất cảng) thì chắc sẽ rất tốt cho quá trình phát triển ngành xe hơi. Kể cả việc xuất ngược lại cho các hãng xe đang kinh doanh tại Việt Nam, và coi đây như một điều kiện tiêu thụ đối lưu có qua có lại. Công nghiệp phụ trợ (sản xuất linh kiện và bộ phận rời) chỉ có thể hiện thực bằng các bước đi cụ thể như vậy. Bên cạnh đó, ta sẽ có nhiều ưu đãi khuyến khích cho chính các doanh nghiệp được thành lập trong nước để làm ra các sản phẩm phụ trợ này, chứ không phải chỉ cho các hãng xe hơi.

Chiến lược sản xuất quốc gia, sự huy động toàn lực sao cho hiệu quả, việc hoạch định và phân bổ nguốn lực hợp lý và tối ưu nói ở đoạn này là một đề tài lớn mà một người không đủ sức bàn sâu. Chỉ thêm, cần xác định rõ vai trò kinh tế nhà nước và hoạt động kinh tế nhà nước sẽ tốt và có hiệu lực thuyết phục ở các lãnh vực và chừng mực nào. Làm sao để vai trò này tạo ra sự vận động kích hoạt, thu hút toàn lực, tăng cường sức mạnh, khuyến khích hay khơi dậy mọi tiềm năng cho nền kinh tế; cố tránh tạo ra tình trạng cạnh tranh bất cân xứng. Ví dụ chính phủ có nên đứng ra (dưới các hình thức) xây nhà giá thấp hay chỉ nên sắm vai hỗ trợ về tài chính và chính sách để doanh nghiệp tham gia sẽ tốt hơn? Ta cũng đã nghe nói nhiều đến hoạt động kinh tế theo qui mô cho mục đich dọn đường của Hàn Quốc. Hoặc sự khuyến khích các hoạt động kinh tế ‘siêu vi mô’ theo kiểu gia đình hay hộ dân của Nhật trước đây, Hồng Kông, Đài Loan hay Thái Lan sau này. Việc tham khảo và mô phỏng có thể giảm thiểu chi phí trả cho việc ‘thử và sai’.

Hoạt động kích cung ở đây không nên chỉ là biện pháp chữa cháy nhất thời, mà nên là chiến lược dài hơi để mở rộng thị trường nội địa. Việc này sẽ cần đến các chính sách rõ ràng, nhất quán. Nếu không, sẽ khó cạnh tranh với các nguồn hàng nhập, không chỉ là của Trung Quốc, mà ngay cả với nhiều mặt hàng (như thực phẩm, thịt) từ các châu lục xa xôi khác ở Âu, Mỹ, Phi… Mặt khác, vì nhiều lý do, ta cũng không thể đơn giản ‘bê’ các mặt hàng xuất cảng qua tiêu thụ nội địa mà thành công được (do khác biệt về tập quán tiêu dùng, sử dụng và công dụng), ngoại trừ là việc tạm thời để giải quyết hậu quả hay hàng tồn.

Việc quá tập trung cho sản xuất xuất cảng, không hay ít chú trọng thị trường nội địa, đến một lúc nhiều doanh nghiệp có thể bị rơi vào bế tắc kép: xuất thì khó khăn, mà tiêu thụ nội địa lại chưa thể sẵn sàng. Chính sách kích cầu (bằng hỗ trợ tài chánh) lúc này đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất cảng (thời điểm 2009) có thể không như mong đợi. Tại sao? Vì khác với thời gian trước tháng 9-2008 bị khó khăn về tài chánh (lãi suất cao), khó khăn tại thời điểm của doanh nghiệp là thị trường xuất cảng bị thu hẹp. Việc ăn hàng, nhu cầu mua hàng là ở đầu nước ngoài nên không thể ‘kích’ được. Việc mở rộng thị trường nội địa dù có đặt ra thì lại không thể một sớm một chiều.

Nhân đây, cũng nên bàn một chút về cách gọi ‘kích cầu’ ở ta. Cách gọi này có thể gây nhầm lẫn, vì thật ra thế giới họ gọi hoạt động này là stimulus, nghĩa là kích thích kinh tế nói chung chứ không đơn giản chỉ kích cầu. Tùy tình trạng ‘bệnh lý’ mà họ sẽ kích cái gì, bơm ở đâu, có thể là kích cung thay vì chỉ kích cầu. Chẳng hạn, muốn phá đóng băng thanh khoản người ta sẽ đổ tiền vào ngân hàng, muốn cứu một ngành nào đó họ sẽ dùng cách tài trợ hay mua lại, khi muốn kích cầu người ta cấp phiếu hay cho tiền…

Vấn đề tài chánh và sự thật nợ dưới chuẩn

Từ năm 2007 cho đến nửa đầu 2009 thông tin về nợ dưới chuẩn tràn ngập trên báo chí. Chẳng lạ, vì cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ gây suy thoái nặng nề cho kinh tế toàn cầu năm 2008 được xem đã ngấm ngầm từ tình trạng rớt giá nhà năm 2006, với ngòi nổ mang tên nợ dưới chuẩn.

Thật ra, từ năm 2006, hay sớm hơn một chút, vấn đề liên quan đến nợ dưới chuẩn đe dọa hệ thống tài chính tại Mỹ đã được các nhà kinh tế tài chánh và báo chí nước này gọi đích danh là cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn (subprime mortgages crisis). Những tưởng vậy là đã rõ: nợ dưới chuẩn chính là kẻ đáng tội. Thế nhưng, kết luận kia liệu có thật chính xác, có khách quan công bình hay không… vẫn còn đó vấn đề. Bởi, phải chăng do nhạy cảm hay bị nhuộm màu, và đặc biệt có quá ít người nói lên sự thật rằng nợ dưới chuẩn đã từng ‘có công’ trong một thời gian dài. Công thế nào? Nếu vì lý do ‘quan điểm’ trước một tình hình kinh tế tồi tệ có tên ‘vấn đề nợ dưới chuẩn’ mà người ta không thể kể công nó đã làm giàu cho nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là ngân hàng và địa ốc, thì ít ra, về mặt xã hội, nhờ nợ dưới chuẩn mà rất nhiều người dân ‘dưới chuẩn’ (không riêng ở Mỹ) đã giải quyết được những cái khó cơ bản về nhà ở, xe đi…

Cứ nghĩ dưới chuẩn là cái gì xấu tất, không ít thông tin đã cào bằng nợ dưới chuẩn là loại ‘độc hại’, phê phán không tiếc lời loại nợ này. Có biết đâu bản thân nợ dưới chuẩn thật ra không có gì đáng gọi là độc cả. Nếu ta biết rõ cơ chế cho vay nợ tại Mỹ và nhiều nước khác, cùng với việc xếp loại thế nào là nợ chuẩn (standard hay prime loans) và thế nào là dưới chuẩn (sub-prime loans) thì có lẽ người ta sẽ có cách nhận định khách quan và đúng mực hơn. Là vì, trong thực tế chỉ có lòng tham con người, chỉ có sự cho vay cẩu thả hoặc người đi vay cẩu thả, và cơ chế quản lý lỏng lẻo mới là những thứ đáng gọi là độc hại.

Cũng có nhiều sự phê phán về các chính sách nới lỏng, các biểu hiện không đồng tình về việc mở ra hoạt động cho vay dưới chuẩn. Tuy nhiên, chưa thấy có ai nêu giả định nếu hệ thống ngân hàng (cụ thể như ở Mỹ) chỉ duy trì các tiêu chí cho vay bảo thủ “trên chuẩn” (từng là thực tế trước những năm 1970) thì có nên?

Sự thực là ở Mỹ chẳng phải đã không có sự tung hô các chính sách ‘dân túy’, không ít người đã vui hưởng phồn vinh, hoặc thực hiện được ước mơ sở hữu nhà, xe của mình từ nợ dưới chuẩn… cho đến khi niềm hưng phấn ấy trở nên lố đà. Không khó thấy một chính sách (của doanh nghiệp) hay một hàng rào nào đó được dựng lên đều có thể có hai mặt, mà nếu được mặt này thì sẽ mất hoặc không được mặt khác. Nếu ngân hàng bảo thủ chỉ cho đối tượng ‘trong luồng’ (người đủ chuẩn) vay thì cơ hội kinh doanh có bó hẹp? Việc này có đẩy hằng triệu người dưới chuẩn vào thế bị đói vốn? Và đây có là sự thiệt thòi hay thậm chí (ở một góc nhìn khác) là một khía cạnh của bất công xã hội? Vậy ta hãy xem lỗi có phải là do bản thân cách phân biệt chuẩn hay dưới chuẩn?

Sự vận động của hoạt động tín dụng nói chung và nợ dưới chuẩn nói riêng cho thấy, dù được gọi là ‘dưới chuẩn’, loại nợ này vẫn có các tiêu chí cho vay (theo thang điểm) dành cho những người đi vay không nằm ở khung điểm cao, tức khung chuẩn mà ngành ngân hàng gọi là nguồn chính thống (mainstream). Nhìn ở góc độ làm ăn, việc phân mảng khách hàng ở đây đặt giới điều hành trước việc phải chọn lựa hay quyết định liều lượng giữa an toàn hơn (lời ít) và rủi ro hơn (lời nhiều), thử thách năng lực, đạo đức và trách nhiệm của họ với môi trường kinh doanh. Ví dụ, một người mua nhà với khoản nợ chuẩn vay theo điều kiện tài trợ chuẩn (mainstream financing) chịu lãi suất 7,5% và trả trước 10% (downpayment), thì cũng khoản nợ này nhưng cho người dưới chuẩn vay lãi suất có thể sẽ là 9% và trả trước 20%. Ngôn từ tài chánh, trong hoạt động cho vay, gọi khoảng chênh lệch của bách phân cao hơn áp dụng đối với trường hợp này (nợ dưới chuẩn) là khoản bù rủi ro (risk premium hay credit spread), mà nếu không có sự phân biệt ‘chuẩn’ và ‘dưới chuẩn’ thì sự việc có lẽ sẽ dễ được cho là bình thường. Suy cho cùng, vấn đề có thể là các giới hạn, điều kiện chế tài bổ sung, hệ thống giám sát và cảnh báo sớm…

Có thể hiểu nợ dưới chuẩn đơn giản chỉ là các khoản cho vay dành cho những đối tượng không đủ điểm chuẩn tín nhiệm theo xếp loại của ngân hàng. Đây là sự phân biệt có tính kỹ thuật cho tất cả các khoản nợ nằm dưới thang điểm cao nhất (less-than-top-quality credit ratings). Xin mở ngoặc, theo tiêu chí FICO(*) điểm tín nhiệm được xếp từ 300 ~ 850, và thang chuẩn có điểm trên 650. Tùy theo mức độ, các khoản nợ cho người có điểm tín nhiệm dưới chuẩn vay có đặc điểm lãi suất cao, chiết khấu sâu, tỉ lệ nợ vay tối đa trên tài sản thế chấp (LTV ratio) thấp so với các khoản nợ chuẩn. Đối tượng đi vay như vậy không có gì đáng trách và bản thân món nợ cũng chẳng có gì là độc cả.

“Độc” có khi lại rơi vào các khoản nợ “chuẩn mà không chuẩn”, và sự đáng trách có khi nằm ở phía những người vay “đủ chuẩn” nhờ bùa phép để có điểm tín nhiệm cao. Độc hay đáng trách cũng nên được xét từ phía các tổ chức cho vay liều lĩnh, đã rót tiền cho các “Ninja”, là dạng khách “no income, no job, no asset” (không thu nhập, không việc làm, không tài sản). Cần biết, ở Mỹ và các nước phát triển khác việc chấm điểm tín nhiệm (credit scoring) thường dựa trên các tiêu chí về thu nhập, tài sản, việc làm, thời gian định cư hay chỗ ở ổn định bao lâu, mức độ tín nhiệm được ghi nhận trong quá khứ thế nào… Vậy có thể xem những trường hợp vay và cho vay liều lĩnh như vừa nêu chẳng có chuẩn nào cả.

Việc hiểu rõ bối cảnh một cách ngọn ngành là điều cần thiết, giúp ta xóa đi nếp nghĩ oan sai trong thông tin và tiếp nhận thông tin, có lợi cho việc tham khảo và yêu cầu tiến hóa. Bởi, cho dù vừa qua vấn đề liên quan đến nợ dưới chuẩn có bị tai tiếng (xin lưu ý ở đây tôi gọi “vấn đề liên quan đến nợ dưới chuẩn” là để phân biệt với cách nói chưa chính xác là “vấn đề nợ dưới chuẩn”), hiện nay hoạt động cho vay theo các tiêu chí dưới chuẩn vẫn diễn ra bình thường ở Mỹ và nhiều nước khác có áp dụng chấm điểm tín nhiệm.

Việc chấn chỉnh các hoạt động nhạy cảm của ngành ngân hàng mà thế giới đã và đang tập trung mới là vấn đề trọng tâm. Nhưng đây là việc khác. Thật ra, yêu cầu chấn chỉnh này không mới, ít ra đã có từ năm 1998 sau biến cố sụp đổ của quỹ đầu cơ LTCM (một hedge fund của Mỹ), và chiến dịch ‘đại tu’ (overhaul) đặt ra cho ngành ngân hàng ở Mỹ hồi 6-2009 không ngoài mục đích này.

(*) FICO, tên viết tắt của Fair Isaac & Co., công ty cung ứng phần mềm xác định điểm tín nhiệm của khách hàng trong hoạt động tín dụng, được Mỹ và nhiều nước khác áp dụng.

Vấn đề chứng khoán và họat động phái sinh

Trong dịp nói chuyện tại Sheraton Sài Gòn do PACE tổ chức hồi tháng 5-2009, khi một khách tham dự đề nghị Paul Krugman, nhà kinh tế đoạt giải Nobel 2008, cho biết ý kiến của ông về hoạt động phái sinh, ông này đã trả lời ngắn gọn với đại ý “đừng đụng tới những gì mà ta không biết hay không nắm vững”. Ý của ông có lẽ chỉ đơn giản như nghĩa đen của câu trả lời. Đó là, cần biết rõ, nắm vững các đặc điểm về công dụng cũng như ‘công phạt’ liên quan trước khi ta muốn sử dụng một công cụ nào.

Việc cần biết rõ và nắm vững trước khi sử dụng không có nghĩa (hay khác với cách nói) là đừng hay không sử dụng. Thế nhưng, đã có không ít phản ứng vừa qua là dị ứng, có vẻ như muốn nói ‘không’ một cách quá đơn giản với các công cụ và sản phẩm phái sinh. Việc đưa ra các cảnh báo, cho là thứ nguy hiểm, đòi phải rút kinh nghiệm theo đó đã vượt xa sự cần thiết, bỏ dở những gì đáng lẽ nên làm sớm, cần nỗ lực cao để trang bị sẵn sàng cho bước tới. Đầu đuôi là do lỗi từ thông tin và cách hiểu, là do ta không nắm vững nên cứ nói không cho chắc.

Khi khủng hoảng nổ ra, cánh báo chí (cả trong và ngoài nước) trong khi trích dẫn các nhận định của chuyên gia, hay tự mình diễn đạt, đã gọi lẫn lộn hay không chính xác (sử dụng thuật ngữ không chính xác) giữa các sản phẩm, nghiệp vụ với công cụ trong thị trường tài chánh chứng khoán. Lại càng không có sự phân biệt khi nào và trong bối cảnh nào thì một công cụ sẽ sắm vai là sản phẩm. Đặc biệt là đối với loại hợp đồng futures, options và swaps, là các công cụ dẫn xuất (phái sinh) phức tạp, có công dụng vừa phục vụ cho hoạt động phòng vệ trong sản xuất kinh doanh, vừa là sản phẩm đầu cơ tài chánh rất dễ gây công phạt… Tại sao lại có tình trạng không mong đợi này? Đơn giản vì việc sử dụng ngôn từ ở đây (theo ngữ cảnh) chỉ là sự diễn đạt thông thường để thông tin. Việc có đủ kiến thức chuyên ngành để phân tích nghiệp vụ với lý giải chuyên sâu, chính xác, không phải ai cũng có và/hoặc lúc nào cũng cần. Ngay như ông Alan Greenspan, cưu chủ tịch FED, cũng thường gọi (một cách không phân biệt) các trái phiếu đươc chứng khoán hóa (như MBS) là sản phẩm phái sinh.

Đi sâu vào bối cảnh, cũng có thể thấy một công cụ phái sinh được nhắc tới nhiều trong mớ rối rắm hoạt động tài chính tín dụng tại Mỹ vào giai đoạn nổ ra khủng hoảng (2007-2008) là CDS (credit default swaps). Tuy nhiên, CDS bị dính vào tai tiếng khi nó sắm vai là sản phẩm đầu cơ. Nhà kinh tế Joseph Stiglitz khi nhắc tới công cụ này cũng đã phê phán việc sử dụng CDS trong đầu cơ. Ông nói “với hoạt động đánh cuộc đan xen phức tạp qui mô lớn, không một ai có thể biết chắc tình trạng tài chính của bất cứ ai khác, thậm chí của ngay cả chính mình; do đó thị trường tín dụng đóng băng là điều chẳng lạ.”. Thật ra, Joseph Stiglitz không có chủ ý kết tội công cụ CDS mà chỉ phê phán những ‘người chơi dao’ đã làm rối thêm tình hình (contributed to the systemic meltdown). Thiết nghĩ đây là một nhận định đúng mực. Bởi suy cho cùng, với các cơ chế hoạt động đan xen, vào lúc bối cảnh quá phức tạp mà không có CDS để phòng vệ (bảo hiểm) các vị thế tài chánh thì chí nguy!

CDS ở vế phòng vệ (hedging) lúc bấy giờ như cái phao. Và sự thật là do không có nó, Merrill Lynch đã buộc phải ‘bán mình’ cho Bank of America vào tháng 9-2008, sau khi bị AIG từ chối cung cấp hợp đồng CDS để bảo hiểm cho danh mục các sản phẩm CDOs (collateralised debt obligations) mà Merrill Lynch đang nắm giữ. (Xin đọc bài CDS ở phần sau).

Ngoài trường hợp CDS vừa nêu, ta cũng có thể nghe nhắc đến các giao dịch phái sinh khác, nhưng đó vẫn là ở vế sản phẩm với hoạt động đầu cơ trên thị trường futures và options. Đặc biệt là với các sản phẩm có tính ‘ăn chơi’ như hợp đồng chỉ số chứng khoán, hoặc loại nhạy cảm như hợp đồng tiền tệ. Đó cũng có thể chỉ là các kỹ thuật mua bán (chứ không phải giao dịch phái sinh) như mua bán song hành (arbitrage) mà quỹ đầu cơ LTCM đã sử dụng và ‘trúng đạn’ năm 1998. Trước đó, Nick Leeson nướng sạch 827 triệu bảng Anh và chôn vùi ngân hàng Baring năm 1995 do đã chơi ngông vào hợp đồng mua chỉ số Nikkei 225. Trong khi George Soros lại thắng lớn 1,1 tỉ USD năm 1992 bằng hợp đồng bán hơn 10 tỉ bảng Anh (futures contract) lúc đồng tiền này đang có giá cao. Giao dịch này của Soros đã làm cho đồng bảng Anh và Bank of England điêu đứng.

Tuy vậy, có thể nói do cơ chế vận đông kinh tế thị trường có tính liên lập, cần yếu tố đối trọng, nên giới điều hành, các chuyên gia kinh tế và người hiểu biết thấu đáo vấn đề chưa ai dám khẳng định hoạt động đầu cơ là không cần thiết. Đồng thời cũng ít ai đổ tội một cách đơn giản nguyên nhân suy thoái kinh tế là từ lãnh vực hoạt động phái sinh. Vấn đề là các giới hạn và cơ chế ngăn chặn từ xa.

Lấy trường hợp Bank of England trên đây để minh họa. Do nguy cơ mất giá đồng bảng Anh đang treo lơ lửng, trong khi ngân hàng Anh lại chần chừ việc tăng lãi suất và neo giữ tỉ giá, nên Soros mới nhảy vào bán các hợp đồng sterling. Nhưng không đợi Soros, việc này cũng cần cho và được thực hiện bởi bất cứ ai đang nắm giữ một lượng lớn đồng bảng Anh lúc bấy giờ (ví dụ các nhà xuất nhập khẩu). Vậy, ta có thể liên tưởng vấn đề với con gà và quả trứng… Lại một trường hợp khác, vào năm 1997, Thái Lan vướng bẫy hối đoái và lãi suất tương tự cũng là do chủ quan, do chính phủ nước này đã bỏ qua lời khuyên của các nhà kinh tế. Có thể nói, loại trừ các biến thể kiểu ‘đánh đề’, cho tới nay chưa có công cụ hay phương thức phòng vệ rủi ro nào tốt hơn và đủ sức thay cho các công cụ phái sinh. Nếu có sự lo ngại về độ phức tạp hay việc nên áp dụng và tham gia loại nào, phân khúc nào, thì đó lại là vấn đề khác và việc này còn đòi hỏi phải có hiểu biết sâu.

Việc đi sâu vào bối cảnh tuy có tốn thời gian và có thể là điều khó khăn với nhiều người, nhưng là việc cần thiết. Là vì, để thẩm định một biến cố lớn và phức tạp, có ảnh hưởng toàn cầu, thì không thể chỉ nghe ngóng nguội và suy diễn chủ quan. Việc thiếu tiếp cận sâu, hiểu vấn đề không tới nơi tới chốn, có thể dẫn tới các quyết định kém chính xác, hoặc thái độ dè dặt thiếu cơ sở. Điều này đã không giúp cải thiện tình hình, lại có thể làm trì chậm cơ hội, cản trở việc thực hiện các toan tính tốt. Bối cảnh kinh tế tài chánh hiện đại lại rộng hơn, với nhiều công cụ tài chánh khác, chứ không riêng phái sinh.

Đến đây, nếu cần phải chỉ ra điều gì đã gây nên những cơn sóng dữ vừa qua (thời điểm 2008 về trước) thì đó là hoạt động chứng khoán hóa (securitization), với các sản phẩm như MBS, CDO, ARM… Đây là các chứng khoán nợ, thuộc họ trái phiếu (bond) được tạo ra từ một tập hợp các khoản nợ chế chấp, phổ biến là nợ vay mua nhà (mortgage pool), chứ không phải sản phẩm phái sinh (gọi securitization là phái sinh chỉ là cách suy diễn hay tiện gọi). Nhưng suy cho cùng thì đây cũng chỉ là các sản phẩm có tính công cụ, tốt hay không tốt là do người sử dụng. (Thật sự nó tốt trong một số bối cảnh và ứng dụng). Không ai vứt bỏ hay xa lánh con dao khi bị đứt tay, vì như vậy là thiếu khôn ngoan, không ích lợi gì, và cũng chẳng công bình. Bởi vậy, các bậc thức giả thường có chung quan điểm ‘tiên trách kỷ’ và yêu cầu không nên co lại, vì càng co lại (co cụm) thì tình hình sẽ dễ tồi tệ hơn. Các nỗ lực phá băng thanh khoản và chống bảo hộ là các ví dụ điển hình.

Việc tiếp cận sâu và nhanh vào thị trường tài chính thế giới, nắm vững các công cụ để chọn lọc ứng dụng và sử dụng, với ta là một yêu cầu không thể xem nhẹ hay chần chừ trong quá trình hội nhập. Nguyên tử không chỉ để chế bom mà còn để phát điện và nhiều ứng dụng khác. Phái sinh không chỉ để đầu cơ mà chính là công cụ phòng vệ rủi ro hiệu quả giữa thời buổi đa phương biến động. Biết cách ‘hedging’ và cài đặt các hợp đồng phù hợp thì rủi ro có thể được loại trừ. Hoạt động kinh tế, các thị trường tài chánh và giao dịch hàng hóa (commodity market) thiếu phái sinh, thiếu các sản phẩm nghiệp vụ hỗ trợ và bổ trợ khác là thiếu các “bộ linh kiện” hay “đồ chơi” cần thiết, sẽ không đồng bộ và đơn điệu…

Tuy nhiên, lãnh vực phái sinh không chỉ có hoặc dừng lại ở các thị trường giao dịch cao cấp như futures, options và swaps, mà còn gồm những sản phẩm thiết thực và gần gũi như cơm. Theo thuộc tính, các sản phẩm như rights (đặc quyền mua), warrants (cam kết bán), DRs (depository receipts), chứng khoán chuyển đổi (convertible)… cũng thuộc họ phái sinh. Gọi là như ‘cơm’, vì chúng không thể thiếu trong các ‘thực đơn huy động vốn’. Ví dụ, nếu không có right, và không xây dựng các hành lang pháp lý với các yếu tố nghiệp vụ và thị trường tương thích cho right, thì hoạt động phát hành huy động vốn sẽ dễ tùy tiện, kém minh bạch, cổ đông (nhất là cổ đông nhỏ) sẽ bị thiệt hại. Hoặc, nếu không có DR thì trong một số trường hợp cổ phiếu có thể bị tắc đường xuất ngoại (niêm yết nước ngoài)…

Nhận diện đúng vấn đề để có giải pháp phù hợp

Trở lại với kinh tế trong nước. Trước tiên, cần xác định một thực tế là trước thời điểm nổ ra khủng hoảng kinh tế tài chánh toàn cầu (9-2008) thì tình trạng suy thoái kinh tế tại Việt Nam đã được ghi nhận là do những bất ổn nội tại. Đặc biệt là những diễn biến bất thường thiếu kiểm soát bộc phát từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, cụ thể từ năm 2007.  Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến sau chỉ như cú bồi khó tránh.

Như vậy, ta không thể đơn giản đổ lỗi tình hình là do khủng hoảng toàn cầu gây ra. Và điều gì được gọi là kinh nghiệm tại Mỹ chỉ có thể là bài học chung về kinh tế khủng hoảng, chứ không thể (không nên) bê nguyên về làm “bài học kinh nghiệm” cho Việt Nam. Thông tin dày đặc về khủng hoảng trên các phương tiện truyền thông có thể đã gây hốt hoảng, làm mất tinh thần nhất thời cho nhiều người. Nếu ta không vững thì sự lo ngại quá đáng, tâm lý hoang mang, thái độ lần lựa thiếu cơ sở, có thể dẫn đến những co cụm thiếu khôn ngoan và bất lợi. Nhận dạng vấn đề là quá trình cần có phân tích sâu và mạch lạc, cần sự tỉnh táo, cần cả tâm lẫn tầm và khách quan. Vấn đề ở ta có khác và rất cần được nhận dạng như vậy. Nền kinh tế của ta lại đang còn ờ mức thấp, cần học tập kinh nghiệm thế giới, tận dụng cơ hội hội nhập để tăng tốc phát triển. Nhưng khi nhìn ra thế giới, việc ta có rút tỉa được gì, rút tỉa thế nào và áp dụng ra sao là chuyện khác. Một sự cố dẫn đến tai họa cho tàu con thoi ở Mỹ chẳng hạn chưa phải là điều đáng lo ở ta.

Do không có vấn đề chung nên việc đi tìm lời giải, đưa ra giải pháp hay các biện pháp ứng phó sẽ cần dựa trên thực tế. Chẳng hạn, trong khi thanh khoản là một trong các vấn đề gay gắt của Mỹ và nhiều nước phương tây xảy ra ngay sau cuộc khủng hoảng toàn cầu, thì đây lại không phải là vấn đề của Việt Nam vào thời điểm đó. Chúng ta cũng không nên đánh đồng vấn đề tương tự của Việt Nam đã diễn ra trước đó khoảng một năm (đặc biệt vào thời điểm cuối 2007 và đầu 2008), nhất là về nguyên nhân và bối cảnh đặc thù của mình. Hoặc, cũng gọi là thất nghiệp, nhưng cách giải quyết có hiệu quả của Việt Nam có thể không phải là (hay không chỉ có) trợ cấp hay lệ thuộc ở nguốn cung việc làm mới, mà có thể là các biện pháp phát triển kinh tế nông thôn và khuyến khích hoạt động kinh tế gia đình.

Một vấn đề khác, để giải quyết khó khăn bế tắc cho các doanh nghiệp xuất cảng, thay vì chỉ đơn giản kích cầu bằng cách bơm tiền cho mảng doanh nghiệp này, ta sẽ tập trung hỗ trợ họ đầu ra, tức thị trường, mà thị trường nội địa là một nhánh quan trọng. Trong đó, đặc biệt không thể xem nhẹ thị trường nông thôn trong nước.

Chẳng phải chuyện mới mẻ, nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước cũng đã đề cập đến giải pháp đẩy mạnh việc phát triển qui mô thị trường trong nước. Điều này hoàn toàn hợp lý và chính người viết tài liệu này cũng đã từng nêu lên trong một số nghiên cứu và tham luận ở các diễn đàn kinh tế. Nhưng từ ý tưởng đến việc triển khai thế nào để thị trường nội địa có độ lớn như mong đợi, nhằm phục vụ cho sản xuất nội địa (xin nhấn mạnh là phục vụ cho sản xuất nội địa), sẽ cần các biện pháp tập trung và bước đi thật cụ thể.

Biện pháp tập trung và bước đi cụ thể cần được chú trọng và nên bắt đầu ngay là thị trường nông thôn. Đây là thị trường lớn trong nước với hơn 60 triệu người tiêu dùng. Gọi là tiêu dùng, nhưng định hướng phát triển không chỉ chú trọng ‘tiêu’ mà cần đạt được năng lực vừa cung vừa tiêu. Cho dù chưa phải là mô hình có thể học tập, hoạt động kinh tế hương trấn của Trung Quốc gần đây là một trường hợp đáng tham khảo. Riêng kinh nghiệm của Thái Lan thì rất đáng tham khảo. Sau khủng hoảng năm 1997, cụ thể là từ năm 2001, Thái Lan đã có chính sách cổ xúy “mỗi làng một sản phẩm”. Mục đích là để tạo công ăn việc làm, giảm tệ nạn xã hội, để chọn lọc cơ cấu hàng hóa và đẩy mạnh hoạt động xuất cảng.

Điều cần nhắc lại là không nên nghĩ đơn giản xuất cảng không được thì bán trong nước. Vì rất dễ có chuyện xuất cảng không được mà bán trong nước cũng không xong. Cũng không thể dùng phương tiện hay cơ sở sản xuất hàng xuất cảng để sản xuất hàng hóa tiêu thụ nội địa. Tại sao? Do giá cả, mẫu mã, quy cách, vật liệu, bao bì đóng gói, liều lượng, thành phần… thường là không phù hợp. Yêu cầu kỹ thuật, công nghệ và cơ cấu hàng cũng là các yếu tố có tính quyết định.

Giả định, có một nhà máy chuyên sản xuất dụng cụ gia đình để xuất cảng và nay muốn bán hàng cho thị trường trong nước, thì xét theo phân khúc, trong đó có vấn đề phẩm cấp và ‘gu’, có thể nói điều kiện sản xuất và cơ cấu hàng xuất hiện tại của nhà máy đó chỉ phù hợp tối đa 30% dân số tiêu dùng trong nước, nhưng chủ yếu sẽ dừng lại ở lớp thị dân. Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của 70% còn lại, họ sẽ cần điều chỉnh và tổ chức lại nhiều khâu sản xuất, sản phẩm và phân phối thích hợp. Việc này lệ thuộc vào khả năng xoay xở thích ứng của doanh nghiệp là chính, nhưng chính sách trợ giúp hay chủ trương khuyến khích từ phía chính phủ sẽ có ý nghĩa quyết định. Do những yêu cầu đặc thù và nhiều lý do khác, hoạt động sản xuất hàng phục vụ thị trường nội địa hầu như nền kinh tế nào cũng có. Nhật Bản hay Thái Lan chẳng hạn, hàng nội địa của họ thường có đặc điểm phân biệt khá rõ.

Việc quân bình hoạt động xuất cảng và tiêu thụ nội địa giúp hóa giải tình trạng hụt hẫng kinh tế quốc gia trong các giai đoạn thị trường thế giới bị co cụm, đồng thời sẽ khắc phục được tình trạng ‘bỏ trống sân nhà’ cho hàng ngoại tung hoành như thực tế lâu nay. Ngoài ra, việc phát triển nội thương qua tiếp cận chú trọng kinh tế nông thôn còn là cách nâng cao lạc phúc cho đại đa số dân chúng nước ta đang ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Đây có thể là bước đệm cần thiết để sàng lọc cho quá trình tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa.

Với tín dụng, tài chánh chứng khoán, các sản phẩm có tính công cụ trong các thị trường cao cấp, là lãnh vực có độ chuyên sâu cao và yêu cầu cân não, sẽ đòi hỏi cần có sự nghiên cứu nghiêm túc. Vấn đề đặt ra là sự tiếp cận bài bản, hiểu biết thấu đáo, khả năng trang bị sâu, thay vì là dị ứng cảm tính, thận trọng cho chắc ăn, tự an bài hay né tránh phức tạp. Việc tích cực chuẩn bị và có lộ trình ưu tiên chọn lọc triển khai là cách hành xử khôn ngoan mà nhiều nước quanh ta đã làm. Điều nghịch lý (và chính đây có thể là vấn đề) là trong khi ta chậm hay ngại triển khai các sản phẩm có tính công cụ hay nghiệp vụ cơ bản để tăng cường hiệu quả hoạt động cho các định chế tài chính nói chung, thì sự vận dụng hay cách làm ‘na ná’ ăn theo thị trường thế giới lại đang phổ biến và có đất sống tốt…

Không có vấn đề chung, không thể có giải pháp giống nhau, nhưng đứng trước cùng một vấn đề thì giải pháp có thể tương đồng. Vấn đề có thể không phải từ khủng hoảng mà đã bộc lộ từ khi có khủng khoảng toàn cầu, và chính đây là vấn đề rất riêng. Vấn đề là nhận diện đúng vấn đề. Việc nhận diện đúng vấn đề và đưa ra giải pháp phù hợp chẳng phải chuyện quá tầm với các chuyên gia có tâm trong nước…

Huy Nam

(Tham luận này được chọn in trong cuốn ‘Khủng hoảng Kinh tế toàn cầu & Giải pháp của Việt Nam’ – Saigon Times Book, Nxb TP Hồ Chí Minh, 2009)

 

Xem thêm bài viết