Ai cũng biết xưa nay sông Sài Gòn vốn hiền hoà, nhưng lại ít ai nhắc đến dòng sông còn có một kết thúc ấn tượng: Trước khi nối vào hợp lưu sông Đồng Nai và sông Nhà Bè để trả nước về cho biển cả, ở đoạn ngắn cuối cùng chảy qua trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, dòng sông bỗng trăn trở, như luyến tiếc kiếp giang hồ, liên tục uốn lượn đến khó hiểu, để lại những khúc quanh Thanh Đa, Thảo Điền, Thủ Thiêm, Tân Thuận. Có lẽ vì nặng tình với con đất cưu mang, đôi bờ ngoằn ngoèo ấy đã vẽ dài thêm không gian sông nước cho vùng hạ lưu. Nhờ thế mà Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh nay có được những bán đảo đẹp quý giá…
Trĩu nặng bờ tây:
Sự ban tặng của thiên nhiên là vậy, nhưng dường như con người chỉ mới nhận có một phần, phần còn lại bị lãng quên. Hơn 300 năm sau khi lập phố, Sài Gòn hầu như chỉ mới tận dụng một bên lưu vực khiêm tốn ở bờ tây để phát triển. Do lợi thế thuận tiện về giao thương, thời kỳ đầu thành phố bám chủ yếu ở đoạn sông giáp rạch Bến Nghé, và cũng chỉ có không gian Sài Gòn xưa này mới được qui hoạch rõ nét. (Chính vì thế mà đến nay người ta vẫn còn thói quen khi nói ra Sài Gòn hay đi Sài Gòn có nghĩa là ra khu cũ này). Việc phát triển tiếp theo đa phần là tự phát, là sự lấn dần vào bên trong, lấp luồng lạch, ao hồ, bàu đầm, rồi ăn sâu vào đồng ruộng. Vài chục năm trở lại đây, cơn lấn lấp ấy đã diễn ra nhanh đến chóng mặt. Nội tạng (hạ tầng thóat nước) tuy vẫn như của một đứa bé nhưng cái xác thành phố thì đã béo phì như anh khổng lồ! Nhiều chỗ ‘trời cho’ là để tiêu nước hay tích nước dần dần bị thu hẹp hay xoá sổ. Các thủy danh Bàu Cát, Miếu Nổi,… từ lâu đã thành địa danh, mang hồn ‘nước’ nhưng mãi mãi không còn nước. Có vùng sau năm ba năm quay lại người ta đã có thể giật mình vì không thể nào nhận ra dấu vết cũ. Chẳng hạn như Đồng Ông Cộ mới đó mới đây, chưa chắc mấy ai dân Sài Gòn mà còn nhớ. Ngoài những trục chính (chủ yếu ở quận 1, một ít ở quận 3 và 5), thành phố đã được ráp vào hay được cơi nới theo nhu cầu trước mắt hay đặc điểm từng thời kỳ. Rõ nhất là áp lực dồn về lánh cư từ thời chiến tranh (1954-1975), và tiếp theo là làn sóng tìm cơ hội kéo dài sau đó (thời kỳ 1975 đến nay). Cứ vậy, có thể nói Sài Gòn đã chịu gần nửa thế kỷ ‘tự phát’, hẽm hóc mọc ra nhiều nhưng lề đi bộ thì hẹp lại.
Không dám phê phán cha ông hay trách người đi trước, nhưng có lẽ không quá đáng để nhận ra sự phát triển tự nhiên như vậy chẳng khác cách ta vẽ tranh chuyền tay, mạnh ai nấy thêm thắt. Tác phẩm lập thể đó không khác các mảng ghép tùy hứng mà có người cho là chắp vá, băm vụn, hay xắc lát. Tình trạng này cũng làm cho việc quản lý về nhà đất trở nên phức tạp, vậy nên mãi đến đầu những năm 2000, có tới gần 80% nhà đất không có giấy tờ hợp lệ. Về địa thế, các không gian chức năng làm nhiêm vụ quân bình hay điều tiết tự nhiên hầu hết đã bị cô lập hay chia cắt: Hồ Kỳ Hòa nay bị tách khỏi Nhiêu Lộc, rạch Bàu Cát đã mất Bàu Cát, kênh Tân Hoá – Lò Gốm có vẻ như khó mà giữ Đầm Sen…
Song song với làn sóng san lấp, nếu quá trình nhựa hóa hay bê tông hóa có cải thiện ‘bộ mặt’ dân cư thì đồng thời điều đó cũng biến phần còn lại của phố xá trở thành tệ hơn. Nước không tự thấm cứ chảy quanh gây ngập úng, chỗ này nâng thì lại dồn nước sang chỗ khác. Vậy là thi đua nâng và nâng tới đâu chưa biết. Chống ngập bằng cách nâng có vẻ như chỉ là đùn đẩy ngập. Thành phố xây trên ruộng sâu đã khó thoát nước, hạ tầng mấy trăm năm lại cứ thế nối chằng nối chịt dài ra. Phần chìm này lại rất dễ bị xuề xoà, thông cảm… làm cho nhiều khu nay thành những cái vĩa chứa nước khổng lồ mỗi khi có mưa. Người dân thành phố nay cũng thường bị ám ảnh với cảnh trên kẹt xe, dưới kẹt nước. Sự chịu đựng “mưa đi ủng, nắng đeo khẩu trang” mà kéo dài và được xem là chuyện bình thường thì xót quá. Biện pháp mương nổi ở Đường 3-2 là giải pháp hay như một dấu hiệu bế tắc?
Hướng sang bờ Đông:
Trong khi bờ Tây trĩu nặng và quá tải, giới chức quản lý đô thị đang tính đến chuyện đi vào lòng đất hay di chuyển trên không, thì phía bờ Đông, sát nách Sài Gòn xưa, vẫn còn yên tĩnh với bìm bịp kêu con nước lên ròng… Vị trí cửa ngõ này từ lâu vốn bình lặng nay vẫn âm ỉ đợi chờ… Mong ước phát triển về bờ Đông là câu chuyện thú vị, cho phép ta liên tưởng đến nhiều trường hợp tương đồng.
Từ rất lâu, Đà Nẵng ôm ấp thắp sáng khu Bạch Đằng Đông (bán đảo Sơn Trà) nhưng giấc mơ đó chỉ trở thành hiện thực vài năm trở lại đây khi đã có cầu Sông Hàn. Nay qua khỏi cầu Sông Hàn, đại lộ Phạm Văn Đồng mở ra thật hoành tráng, xuyên mũi đón gió Sơn Trà tới biển. Nối vào cuối đại lộ này, nay mai là con đường dọc biển, một đoạn “di sản văn hoá thế giới” qua Non Nước, Điện Nam–Điện Ngọc và nối vào Hội An, Mỹ Sơn.
Ở Trung quốc, nhờ quyết tâm cao Thượng Hải có thêm Phố Đông trong vòng chỉ 10 năm. Theo gót là Quảng Châu với tham vọng phát triển một Phố Đông bên kia bờ Châu Giang. Chính phủ Trung quốc cũng đã thành công với chiến lược tập trung phát triển kinh tế tại các tỉnh phía Đông trước để tạo động lực (và thực lực), sau đó mới phát triển về phía tây. Trước mắt ít nhiều có sự hy sinh phía tây, nhưng điều đó là cần thiết và cho kết quả thuyết phục. Là bậc thầy của tư duy thực tế và hiệu quả, họ hiểu rõ việc dàn trải, duy ý chí sẽ là phí phạm và có khi trả giá đắt.
Ở ta, việc phát triển Sài Gòn về phía đông, qua Thủ Thiêm, đã được xác định và hoạch định rất sớm, hơn 10 năm là theo quy hoạch mới, thật ra, từ trước 1975 Sài Gòn đã có tầm nhìn sang hướng này. Thế mà cho tới gần đây, bán đảo tiềm năng cách trái tim Sài Gòn chỉ khoảng năm trăm mét này vẫn còn là một vùng quê! Đường đất, chân đất, cầu ao, cầu cá, ếch nhái kêu ọap ộp. Từ các cao ốc dọc bến Bạch Đằng, nếu có người thích thú nhìn cái “view” (quang cảnh) hoang sơ bên kia sông Sài Gòn, phía Thủ Thiêm, thì họ đâu rằng biết đó lại là sự chua chát không riêng đối với Thủ Thiêm… Chưa sang được bờ đông, bờ phía tây lại tiếp tục bị chất nặng, bị nêm chặt hay phình ra. Đến nỗi sau nhiều năm tham gia vào thị trường xây dựng tại Sài Gòn, có lần một Việt kiều Úc nửa đùa nửa bi quan nói rằng ”mình có cảm giác như Sài Gòn đang bị chìm xuống”.
Phát triển về phía bờ Đông chẳng phải chỉ có mục đích để đánh thức Thủ Thiêm, Thủ Đức, mà còn là để nối vào vùng kinh tế động lực, tạo khả năng mở ra một Sài Gòn xanh mới có đồi dốc đẹp (vùng Thủ Đức và Quận 9). Đồi dốc là thứ hiếm hoi đối với Sài Gòn hiện hữu. Chính đồi dốc và sông nước mới cho không gian ở tốt nhất. Thế nên tại Sài Gòn xưa dân Tây chọn những gò đất cao để ở, và nay “cộng đồng Tây” mới lại chủ yếu rủ nhau về Thảo Điền. Ngoài việc chia sẻ áp lực dân cư cho bờ tây, đô thị phía đông sẽ thu hút bớt giao dịch và lượng người rất lớn đi lại Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu hằng ngày vì họ không còn phải qua sông. Đồng thời nó cũng sẽ hút dòng người từ bờ tây sang. Ách tắc giao thông nhờ đó được hoá giải.
Vậy thì chừng nào bờ Đông sẽ đón phố về? Điều kiện số một là thêm cầu! Đơn giản quá nhưng bế tắc! Hơn 300 năm kể từ khi ông cha ta quần cư và lập phố ở đây, chỉ vỏn vẹn có hai chiếc cầu được bắc qua đọan sông này (không tính cầu Bình Lợi). Hai chiếc cầu ấy, Sài Gòn và Bình Triệu, đang ngày đêm oằn lưng chịu một lượng xe khủng khiếp. Cứ nơm nớp nghĩ tới điều không dám nghĩ: Sập! Có lẽ người dân thành phố và đồng bào cả nước có cùng cảm nhận và nỗi bức xúc như ông Nguyễn Minh Triết, Bí thư Thành ủy TP HCM: “Là địa phương đóng góp 30% GDP của cả nước nhưng từ 1975 đến nay chưa có một cây cầu mới nào bắc qua sông Sài gòn, so với 4 cái bắc qua sông Hồng ở Hà Nội” (TBKTSG – 5/12/2002). Ai đời không lâu trước đây, các “thị dân” bên Quận 2 còn gánh rau xuống “đò” để qua bán ở Chợ Cũ Hàm Nghi. Chỉ vài năm nay thôi mới có những chiếc phà đàng hoàng. Thật là oái ăm khi ta tính chuyện mở đường, xây cầu bắc qua sông Đồng Nai để phát triển sang Nhơn Trạch, Long Thành, hay xây hàng loạt cầu tại nhiều tuyến khác, mà Thủ Thiêm vẫn còn lẹt đẹt… phà.
Nhiều người cứ nghĩ rằng Thành phố không có khả năng… Nhưng không phải, chuyện khó hơn, kẹt Ba Son và Tân Cảng! Cảng chưa thể dời (dự trù 2020 dời xong 42 cảng), cầu không thể làm… Vậy là hàng loạt tồn tại và phát sinh sẽ tiếp tục gây nan giải cho Sài Gòn: Các bệnh viện, vừa chữa bệnh lại vừa thải ra ô nhiễm, cứ tiếp tục quanh quẩn ở nội thành; các siêu thị, trung tâm mua sắm, ăn uống, trường học (nhất là đại học), cơ quan, dịch vụ, cứ duy trì hay đua nhau mọc lên ở những nơi vốn đã quá đông người, tiếp tục kéo dân ngoại thành và các tỉnh vào. Anh này giữ chân anh kia. Kể cả dân nhập cư và người nghèo hay cơ nhỡ cũng đổ về đó bám quanh để kiếm sống. Sài Gòn buộc phải chịu đựng nên chất lượng sống sẽ khó cải thiện là điều chẳng lạ! Giải pháp xe điện ngầm hay đường sắt trên cao mà cứ túm tụm vào “một trung tâm” như hiện nay chưa chắc sẽ đạt được mục đích.
Về mặt danh nghĩa, Thành phố đã kết nạp Quận 2, Quận 9, và Thủ Đức bên bờ Đông vào ‘câu lạc bộ nội thành’ lâu rồi, nhưng thực chất ở những nơi đó vẫn còn đang đi lên với áo mão rất ngoại thành. Gần đây lãnh đạo Thành phố có đề cập tới hướng phát triển các đô thị vệ tinh, kể cả phối hợp với Bình Dương và Đồng Nai tại Dĩ An, Nhơn Trạch… là dấu hiệu đáng mừng.
Cùng với quyết tâm thực hiện trục Đông-Tây, tập trung đẩy mạnh tiến độ phát triển đô thị mới Thủ Thiêm, câu chuyện xây thêm cầu qua sông Sài Gòn đã được hâm nóng lại nhiều lần. Thành phố lại hướng hy vọng về phía bờ Đông… Hiện thực về một Phố Đông Sài Gòn luôn là nỗi mơ niềm ước của người dân hai bên bờ sông.