Sự kìm hãm của lo và sợ

Đăng ngày

Chia sẻ:

Có một thực tế là chỉ khi nào có những cuộc thăm dò, được hỏi trong điều kiện khảo sát vô danh thì người ta mới chịu ‘tố cáo’ tham nhũng. Tương tự, tại nhiều nghị trường, nạn nhũng nhiễu, vòi vĩnh, ăn chặn vẫn thường được nêu lên, nhưng nếu được hỏi ‘ai’ thì dù ai có biết cũng chỉ xa gần chứ không dám nói thẳng.

Chuyện lại đã vượt ngưỡng đại sự quốc gia… Kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới (WB) phối hợp với Thanh tra Chính phủ công bố hồi tháng 11-2012 cho thấy, có tới 85% người được hỏi cho rằng tham nhũng là rất phổ biến trên phạm vi cả nước. Báo cáo cũng đã ‘xếp hạng’ tham nhũng ‘nhất, nhì, ba, tư’ theo lãnh vực và mức độ ăn đậm. Cho dù có gây bức xúc, những thông tin như vậy không còn lạ gì ở ta do ai cũng đã biết. Ai cũng biết, nhưng không dễ ai nói lên được và việc chỉ ra đó là ‘ai’ còn khó trăm lần. Thế nên, đã có bao nhiêu chuyện được xới lên quyết liệt nhưng cuối cùng đâu cũng vào đó. Việc sợ trả đủa, ngại thù oán là điều có thật…

Mới đây, vào đầu tháng 12-2012, lại thêm chuyện ‘trăm triệu’ chạy chỗ làm công chức huyện nổ ra tại nghị trường Hà Nội. Khi tin này được loan đi trên báo chí, người đọc cả nước đã nhanh chóng phản hồi là ở đâu cũng có chứ không riêng gì Hà Nội. Họ còn đàm tiếu giá nào ghế nào, rằng khách mua không chỉ để làm quan mà còn chạy chỗ, và câu chuyện không chỉ dừng ở huyện… Các thực tế tệ hại mất lòng dân và phổ biến như vậy lâu nay cứ lặng lờ trôi. Ai cũng biết, cũng lên án, nhưng do không làm gì được nên phải sống chung, phải tiếp tục là phía cung hay tham gia vào vùng mờ hối mại thế quyền. Thế mới oái oăm! Tình trạng dung túng bất đắc dĩ ở đây bắt nguồn từ sự lo sợ, từ lo đến sợ, và do lo nên sợ…

Do lo sợ, người ta chỉ có thể phản ảnh gián tiếp chứ không dám tố hay chỉ trực tiếp, chỉ nói lòng vòng chứ không dám nói thẳng, hoặc phải chờ có người phát pháo hô lên thì mình mới dám theo. Lo và sợ như vậy vô hình trung đã nuôi lớn nhiều thói hư tật xấu trong xã hội. Đáng ngại, không ít thói hư tật xấu ấy đã thành những cái nếp khó bỏ trong quan hệ và giao tiếp thường nhật, đến mức ai không theo đâm lo, không làm thấy thiếu. Trật tự phục vụ đã bị lề thói ban ơn che lấp. Từ chuyện con đi học, thủ tục hành chánh đến các nẻo đường làm ăn nếu không lo không yên tâm, không lót sợ rắc rối. Việc xử sự thực dụng núp bóng quà cáp phổ biến đã hạ thấp giá trị nhân văn của lời cảm ơn, lấy đi cái đẹp đích thực của mỹ tục. Được nhắc tới nhiều là tệ đút lót, hối lộ, chung chi song hành với nạn nhũng lạm, làm khó, vòi vĩnh bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhưng đó chưa là tất cả. Lo sợ xuất hiện đa dạng hơn, tiềm ẩn ở nhiều khía cạnh và ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống.

Lo sợ dập tắt cảm hứng, làm ngưng tụ tư duy, khóa trái cánh cửa tự tin, biến con người thành thụ động, phòng thủ, ưa nghi ngờ. Lo sợ là nguyên nhân của sự rụt rè, khúm núm, gây tâm lý ngại bày tỏ, an phận, dễ thỏa hiệp, cầu an. Nếu vì quá lo đến phải sợ hãi thì nhuệ khí tiêu tan, mất lửa nhiệt thành và khả năng độc lập bị tê liệt. Thay vào đó là sự ngoan thuần hoặc chịu đựng.

Lo và sợ đã làm cho trường học thiếu các không gian tranh luận cần thiết, các nghị trường trở nên buồn tẻ, một chiều, khó dung nạp hoặc không thu đạt được các yếu tố bổ sung, những đóng góp trí tuệ như đáng lẽ. Người đi học mà lo sợ sẽ ngại phát biểu, không dám nói khác thầy, không thể có lời giải tốt hơn cho bài toán đã có sẵn đáp án, không có điều kiện bay bổng để bài văn của mình có hồn thoát mẫu. Người đi làm mà lo sợ thường chỉ biết chấp hành, đợi để được sai, ưa giữ mồm giữ miệng, biết cũng không dám nói, và nếu sếp có nói không đúng thì vâng dạ vẫn tốt hơn. Sự lo sợ có thể đã sẵn trong máu người đi học, trong thịt kẻ đi làm, nhưng cũng có thể là sự thụ nhận từ uy lực của thầy, của sếp, cũng có thể là do cái khuôn nó buộc người ta phải thế. Nếu ông thầy, vị sếp và cái khuôn mà tốt thì đã may, bằng ngược lại có thể là tai họa.

Lo sợ ngăn chặn sáng tạo. Vâng, khoa học đã chứng minh rằng nỗi lo và sự sợ hãi sẽ phong tỏa não. Bởi khi người ta lo sợ thì não lập tức bị đè nén, vỏ não (là khu vực suy nghĩ của con người) sẽ tê cứng do bị ức chế. Điều này làm não mất khả năng cảm ứng và sự suy tư để có sáng tạo không có miền phát triển.

Lo sợ có thể hình thành nên những cái liêu che đậy dốt nát, tạo phe cánh, bè phái, bao che, bảo thủ. Và một khi những bức tường bè phái, bảo thủ ấy được dựng lên để bảo vệ các vùng riêng thì hiền tài sẽ không có cửa, trí tuệ khó chen vào. Sự phiến diện, chủ quan, coi thường yếu tố dụng nhân sẽ xuất hiện, và đây sẽ là điều thiệt trăm phần cho doanh nghiệp, cho tổ chức, cho quốc gia. Việc không thích ai nói khác, lo ngại người hơn mình, thủ thế, cứ lối mòn cho chắc, sẽ là cái nút chặn phát triển. Trong một số bối cảnh còn xuất hiện những lo sợ từ dị đoan, cậy thần thánh vào ngày giờ đi đứng, dựa ông thầy bà bóng để tin rằng tay này hợp, tay kia không… Những chi phối cõi trên như vậy đã làm cho các ước lệ hành xử bị méo lệch. Nhiều người có thể đã mất ăn mất ngủ trước những đợt di dời hay sắp xếp mà tiêu chí không thuộc về năng lực và đạo đức.

Sự sợ hãi còn là cái đuôi của lòng tham. Điều này dễ thấy trong lãnh vực đầu cơ, đặc biệt là với thị trường chứng khoán. Đúng là càng tham thì càng sợ hãi. Nhưng ngược lại thì không đúng (hoặc chỉ đúng một phần trong vài tình huống khi có sự câu kết giữa sợ hãi và quyền lực). Bởi trong nhiều trường hợp, sự sợ hãi đã làm cho người ta nguội lạnh, ích kỷ, mất dũng khí, thu mình vào vỏ ốc. Sự dửng dưng trước những tổn thất, phí phạm, thây kệ với thói hư tật xấu, lạnh lùng trước các cảnh đời khổ đau, bất hạnh… là những ví dụ. Lo sợ cũng hạn chế khát khao, ngại khó, hễ cái gì phức tạp là thận trọng. Thấy “tàu con thoi” bên Mỹ nổ chết người đã vội ra kết luận ‘ta nên thận trọng’, vội nói ‘không’ (cho khỏe!). Hậu quả là có bao điều hay, chuyện tốt đã có hằng trăm năm ở xứ người, giúp kinh tế nhiều nước thoát lên giàu có, mà nay ở ta vẫn cứ xa lạ, mù mờ. Đất nước do vậy nên khó cất cánh.

Đáng mừng là tình trạng dửng dưng thây kệ kia chưa phải đã nhiều, sự khát khao không phải đã hết. Đất nước vẫn còn nhiều triệu bàn tay, khối óc sẵn sàng đóng góp và mong được hiến dâng. Vấn đề là khả năng tập trung và môi trường dung nạp. Môi trường ấy không nên có các bức tường quá kín, những rào cản quá cao. Môi trường ấy cần được xây dựng trên tinh thần tin cậy, cầu thị và cởi mở, có sự bình đẳng tối thiểu, và gồm những cái đầu biết lo nhưng không sợ.

Xem thêm bài viết