Giữa lúc thế giới phập phồng vì nạn khủng bố hay các xáo trộn về chính trị thì Việt Nam nổi lên như một nơi bình yên, thuận lợi cho sản xuất, làm ăn. Cùng với yếu tố con người được đánh giá là thông minh, khéo léo; lao động tháo vát, cần cù và tương đối rẻ, lợi thế thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) đáng lẽ phải được mùa… Nhưng thực tế một thời gian dài đã không diễn ra như mong đợi, vì sao?
Có thể ta đã nghe nói nhiều về những ách tắc do pháp lý chưa đồng bộ, hạ tầng chưa đáp ứng, tệ quan liêu nhũng nhiễu, giá tiện ích đắt đỏ, chi phí thực tế cao, v.v… Nhưng còn một nguyên nhân tuy ít nói ra lại được giới đầu tư trong và ngoài nước quan tâm đặc biệt, đó là tình trạng thiếu nhất quán hay thiếu ổn định trong hoạch định chính sách.
Sự thiếu nhất quán chung quanh chiếc xe gắn máy là một ví dụ. Còn nhớ, vào đầu những năm 2000, hàng loạt chính sách khuyến khích sản xuất xe gắn máy trong nước đã được tung ra. Trong đó có lộ trình giảm nhập, tăng nội địa hoá, các nỗ lực tập trung để có xe giá thấp cho người thu nhập thấp. Kế hoạch sản xuất động cơ mà Bộ Công Nghiệp từng dự trù là từ ba đến năm trăm ngàn bộ mỗi năm nhằm cổ xúy cho chiến lược xe máy thương hiệu Việt Nam… Những nội dung vừa kể đó đã thu hút các nhà đầu tư hưởng ứng đón đầu khá sôi động. Nhưng đến cuối năm 2002, chủ trương hạn chế xe gắn máy bằng các biện pháp hành chánh được đưa ra khá bất ngờ, lại được thực hiện trong thời gian ngắn. Điều này lập tức làm cho ngành sản xuất mới vừa được khuyến khích kia nhanh chóng bị xìu xuống. Mặc dù được công nhận là một chủ trương đúng và cần thiết, sự thay đổi đột ngột như cú thắng gấp không chỉ gây sốc cho các nhà đầu tư nước ngoài mà nhiều doanh nghiệp trong nước cũng đã lao đao.
Cùng quan sát các động thái vĩ mô tương tự, các nhà sản xuất xe hơi tuy được xem là đãi ngộ, mới đây cũng đã có nhiều phản ứng, cho dù tính chất vấn đề có hơi khác. Hay chuyện thay tới đổi lui hạn ngạch dệt may xuất đi Mỹ (giữa năm 2003) đã gây không ít trở ngại, tốn kém, thậm chí bất bình, cho giới sản xuất gia công may mặc khắp nước. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài còn có những vấn đề riêng đã được nêu lên tại nhiều diễn đàn. Vụ việc đôi khi chỉ là một, nhưng nơi này có thể làm ngược nơi khác. Báo chí và chính người trong cuộc đã mô tả các tồn tại kia như là các “thử thách” cần phải “kiên nhẫn” để vượt qua!…
Sự không nhất quán, thiếu ổn định về chính sách như vậy đã làm cho các nhà đầu tư trở nên thận trọng, dễ có tâm lý lo âu, thủ thế… Ai đã quen hay năng động một chút thì phải xoay xở nhiều hơn, nhưng họ chỉ làm ngắn và nhỏ chứ không mở rộng. Điển hình, đầu tư của Nhật vào Việt Nam năm 1996-1997 là 119 dự án với tổng vốn là 1,2tỷ USD. Đến năm 2002 số dự án của họ là 42 nhưng tổng vốn đầu tư chỉ là 102triệu USD (bình quân một dự án từ hơn 10triệu USD giảm xuống còn dưới 2,5triệu). Cho dù vào những ngày giữa Quý 3–2003, sau hằng loạt nổ lực của Chính phủ, đã có một số dấu hiệu tốt hơn về các dự tính của người Nhật, đặc biệt là các dự án sẽ triển khai tại miền Bắc, hậu quả giảm sút đầu tư từ Nhật trong vòng 5 năm qua là kinh nghiệm không nên xem thường. Nhiều thống kê gần đây có thể làm ta sốt ruột. Ví dụ, trong tổng vốn Nhật đầu tư vào ASEAN thì Việt Nam chỉ chiếm có 0,9%, qúa nhỏ so với Thái Lan là 37,4%, Philippines là 18,4%, Indonesia là 16,5%… (Tuổi Trẻ 17-7-2003). Tình hình chung được các khu công nghiệp tại TP HCM và một số tỉnh trong vùng động lực ghi nhận trong nhiều năm vừa qua là quy mô vốn đầu tư của đa số các dự án được cấp phép đều nhỏ, thường là dưới 2triệu USD, không ít dự án chỉ là vài trăm ngàn USD.
Một so sánh khác của ông Sarath Sajapatirana, chuyên gia WTO, phát biểu tại diễn đàn “Việt Nam: Sẵn sàng gia nhập WTO” hồi tháng 6-2003, có thể minh hoạ thêm các đặc điểm hạn chế cần được nghiên cứu cải thiện: “Hơn 70% vốn FDI tại Châu Á ngày nay là từ các nước đã phát triển. Trong khi đó, gần 70% vốn FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nước Châu Á”. Theo ông Sarath, sở dĩ có chuyện này là vì chỉ có các nước quen xoay xở trong khu vực mới dễ thích nghi được những điều kiện làm ăn còn thiếu hấp dẫn tại Việt Nam. Trong đó có hạ tầng yếu kém, tệ quan liêu, nhũng nhiễu, sự thiếu ổn định của các chính sách…
Điều kiện ổn định là quan tâm hàng đầu khi các ‘nhà giàu’ quyết định bỏ tiền ra đi làm ăn xa. Điều kiện ổn định đó cần được hiểu gồm cả về mặt xã hội và chính sách. Một bối cảnh chính trị xã hội ổn định nhưng khâu chính sách kém ổn định thì không đủ sức thu hút. Ngoại trừ để kiếm “áp phe”, không ai đi đầu tư lại muốn bị ‘thử thách’. Các nhà đầu tư dù đi tìm lợi thế cho mình, chính họ đang thủ đắc lợi thế, vì sự cạnh tranh thu hút đầu tư của các nước quanh ta rất gay gắt. Bởi vậy, thật đáng quý nếu họ chịu ngồi lại để bộc bạch khó khăn này vấn đề nọ với ta, thậm chí là than phiền hay phê phán… Một sự bỏ đi lặng lẽ mới nguy! Vấn đề sẽ không có gì lớn nếu trong tư duy hay hành xử ta luôn thử đặt mình trong đó.
Cũng là sự không ổn định của chính sách, một vấn đề rất thời sự xảy ra vào giữa năm 2003 làm cho nhiều cá nhân và doanh nghiệp trong nước một phen “xanh” mặt: Chỉ thị 07 của UBND Quận 2 TPHCM quy định lại lộ giới sông Sài Gòn đồng loạt là 50mét. Theo thông tin phân tích trên báo thì ý tưởng dù là rất hay này lại phủ nhận toàn bộ cơ sở pháp lý được xác lập trước đó với lộ giới từ 20-50m. Dựa vào lộ giới cũ, nhiều doanh nghiệp được khuyến khích đã bỏ tiền ra đầu tư hạ tầng dể biến một vùng sình lầy hoang sơ thành đường sá và các khu dân cư từ những năm ’94-’95, dân chọn ra ở đây lúc ấy cũng chẳng phải nhiều tiền… Nay thì ai cũng có cùng nỗi khổ khi nghĩ đến việc sẽ được đền bù! Đáng nói, bối cảnh của sự việc được xem là nghiêm chỉnh (khu này được đánh giá có quy hoạch tốt, giấy tờ thuộc loại đầy đủ nhất TPHCM). Chỉ có sự không nhất quán là có lỗi, có thể để lại di chứng…
Nhà nước, nhà đầu tư và người dân sẽ chẳng ai có lợi trong bối cảnh thiếu nhất quán và chính sách không ổn định. Nền kinh tế dễ bị co cụm khi ‘người có tiền’ co cụm, khi người đầu tư chỉ tính ngắn, làm ‘ngầm’, chạy thương vụ… chứ không chú tâm gầy dựng lâu dài. Tâm lý bất an sanh tiêu cực đối phó, tác hại đến yếu tố lạc nghiệp trong phát triển bền vững.
Sự cải thiện và đổi mới liên tục, hiểu sâu đi sát trong đánh giá và bổ sung chính sách là cần, nhằm duy trì hiệu lực quản lý nhà nước. Tuy nhiên quá trình đó chỉ tích cực khi nó động viên được nội/ngoại lực, tránh gây tổn hại cho người làm ăn ngay thẳng, khuyến khích tốt hơn sự tham gia… Ý này muốn nói, ngay cả sự thay đổi trong chính sách cũng nên dựa trên nền an dân. Nhà nước nếu có thiệt chỉ là để cho nước nhà giàu mạnh hơn lên…
Huy Nam, 2003