Mười lăm năm trước, khi có chủ trương chuyển nền kinh tế nước nhà sang cơ chế thị trường, ta đã mặc nhiên theo đuổi tiến trình hội nhập. Hội nhập như vậy không còn là vấn đề mới. Thời kỳ chuyển đổi này–tạm gọi là hồi một–cạnh tranh được xác định là động lực quan trọng. Nhưng vào buổi ban đầu ấy, ý nghĩa cạnh tranh thường quanh quẩn trong lãnh vực sản xuất kinh doanh, cụ thể là trong thương trường mua bán hàng hoá dịch vụ dân sinh.
Dần dần, do áp lực tái cấu trúc và yêu cầu cải tổ sâu rộng các thành tố có tính tác nhân, để đáp ứng yêu cầu phát triển bắt kịp, việc du nhập các hình thái doanh nghiệp và cơ chế mới trở thành phổ biến. Xuất hiện nổi bật trong những năm ’90 và tập trung vào nửa sau của thập niên này, có thể nói là các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán (TTCK). Cùng với các nỗ lực cải cách hệ thống ngân hàng, hai thực thể này tô đậm ý nghĩa hiện thực của một thị trường vốn điển hình. Công ty cổ phần và TTCK là hai sản phẩm anh em (như hình với bóng) rất đặc thù của kinh tế thị trường. Quá trình mở rộng quy mô và tạo lợi thế cho mình, các công ty cổ phần không thể không có chiến lược cạnh tranh thu hút vốn. Điều này sẽ càng gay gắt một khi nền kinh tế thực sự mở rộng cửa giao thương theo các cam kết quốc tế. Trước tình hình đó, với vai trò sinh ra là để hội nhập, các công ty cổ phần và định chế TTCK đã dọn sẵn, hoặc ít ra là dự liệu, được gì cho mình?
Ta khắc biết, cạnh tranh bước vào hồi hai, khi ta hội nhập với khu vực và thế giới, sẽ không còn ở mức độ hữu nghị như giai đoạn chỉ có ta với mình. Mở cửa đi ra, ta đòi bạn phải cư xử cho đồng, thì khi ta đón họ về cũng sẽ được yêu cầu phải “chơi” cho giống. Lợi ích và cần thiết của hội nhập có lẽ không phải bàn nhiều. Điều cần lưu ý, bối cảnh cạnh tranh với sự xuất hiện nhiều đối thủ mới chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phần bánh của các công ty trong nước. Vì vậy, nếu trình độ tổ chức và quản lý công ty ở ta chậm đổi mới hoặc không tương thích thì dễ làm cho nội lực (các nguồn lực nói chung) bị suy yếu hay chậm phát huy.
Trong khi đó, thực tế cổ phần hoá và tổ chức công ty cổ phần vừa qua còn ẩn chứa nhiều bất ổn. Loại hình công ty cổ phần được xem là tổ chức doanh nghiệp mở rất thuận lợi cho việc phát triển, nhưng theo luật lệ và cách tổ chức ở ta hiện nay lại đang thiếu một định hướng bền vững. Các công ty được thành lập không hạn chế về quy mô, địa bàn hoạt động, được huy động vốn cả trong lẫn ngoài nước, nhưng lại không có hành lang riêng đủ hiệu lực để bảo vệ người đầu tư. Công ty có hàng ngàn cổ đông trải rộng khắp nước cũng được quản giống như công ty chỉ có ba cổ đông. Đã thế, sự thiếu cởi mở và không đồng bộ trong thông tin, hoặc thông tin theo thủ thuật, vừa thiếu (che đậy) vừa thừa (thổi phồng)… có thể làm cho môi trường đầu tư bị méo lệch, kém hấp dẫn. Tình trạng lạnh nhạt với đầu tư từ đó xuất hiện, các công ty sẽ lại đói vốn… Sự dễ dãi, tùy tiện, lúc này có thể lại là bi kịch …
Đối với các công ty cổ phần được hình thành từ tiến trình cổ phần hoá, việc quản lý phổ biến vẫn còn theo nếp cũ, về nhân sự và phương pháp. Biểu hiện kém thuyết phục và cản trở đổi mới rõ nhất là ở việc giữ lại tỷ lệ vốn nhà nước rất cao – thường là trên 30% – và kế đó là cơ cấu HĐQT thiếu sức bật, với các thành viên đại diện nhà nước chiếm đa số hoặc hầu như là “bộ sậu” cũ. Việc can thiệp có tính áp đặt theo cơ chế nhà nước hoặc chủ quản cũ (can thiệp từ bên ngoài công ty) còn khá sâu và phổ biến, rất bất hợp lý. Ví dụ, việc giới thiệu ứng viên vào HĐQT đi kèm với chỉ đạo phải trúng cử; “cấp trên” chỉ định chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc… Nhiều nơi, việc sản xuất kinh doanh cụ thể, các quyết định về tài chánh, đầu tư… vẫn còn bị chỉ đạo rất “chặt”. Những biểu hiện vừa nêu có thể làm triệt tiêu động lực đổi mới sáng tạo, vô hiệu vai trò chủ động đáng qúy của cơ cấu quản trị công ty, thậm chí ngược với chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, cách tổ chức và cài đặt nhân sự chồng chéo, do vụng về hay có chủ đích, còn là lực cản ảnh hưởng lớn đến khả năng phát triển vững mạnh của công ty. Hiện nay có trường hợp, chủ tịch HĐQT của một công ty cổ phần lại vừa là tổng giám đốc của một công ty khác cùng ngành. Kiểu này thì lấy đâu tâm huyết và ai dám đoan chắc rằng vị lãnh đạo cao nhất này sẽ toàn tâm toàn ý với sự nghiệp công ty?
Tình trạng yếu ớt của khu vực kinh tế tư là một thực tế đáng lo khác. Các công ty cổ phần đại chúng mạnh có xuất phát điểm từ khu vực tư, do đó, sẽ hiếm hoi. Với bản chất năng động, đây lại là khu vực kinh tế sẽ có đóng góp quan trọng trong giai đoạn hội nhập.
Quan điểm nhìn nhận cùng một thực thể doanh nghiệp ở ta cũng có sự khác nhau không cần thiết. Hay có thể nói, ngay trong nội bộ “đội nhà” vẫn chưa có hội nhập. Chẳng hạn, cùng là công ty cổ phần nhưng mặc nhiên đang có sự phân biệt là “công ty cổ phần nhà nước” và công ty cổ phần không nhà nước. Công ty cổ phần nhà nước, chẳng phải chỉ là cách gọi, mà là thực sự “có uy” hơn các công ty cổ phần không nhà nước. Những đặc ân về vật chất và tinh thần được dành cho những đứa con ra riêng này là có thật. Dù đó là chuyện bình thường, nhưng có vẻ như nó đối lập với mong đợi mà thị trường đang bức xúc đặt ra : sự đồng đều về cơ hội và được đối xử bình đẳng. Ơ đây có thể là đầu mối tiềm ẩn thêm một bất cập mới nữa khi ta hội nhập. Nếu các công ty đã cổ phần hoá ỷ lại, không chủ động hay thiếu nỗ lực thích ứng để cải cách nhanh về quản trị điều hành và phát triển theo hướng năng động, thì khi “bạn” ở ngoài vào làm ăm với ta, do hiệu lực của việc phải đối xử bình đẳng trong các cam kết song phương và đa phương, các công ty của ta chắc sẽ đối mặt không cân sức với những người làng giềng mới dọn đến hay với sản phẩm cùng loại của họ. Nếu điều đó xảy đến, cộng với sự hạn chế về quy mô của khu vực tư và tình trạng kém năng động của khu vực doanh nghiệp nhà nước, khả năng ta bị thất thế ngay trên sân nhà là rất cao. Lúc đó liệu ta có phải chịu ngồi xem các đội bạn chơi với nhau hay lại tiếp tục “kiếp gia công” hoặc “cho thuê đất”?
Từ những phân tích trên đây, việc cần phải quan tâm chuyên sâu hơn về cách tổ chức, quy mô “đoàn tàu công ty và thủy thủ đoàn”… sẽ có ý nghĩa quyết định giúp cải thiện thế và lực khi hội nhập. Những thứ đó lại còn cần được chuẩn bị nuôi dưỡng và thử thách trong một môi trường khác có tính sàng lọc hơn là TTCK. Điều này tiếp tục đặt TTCK trước yêu cầu phải tự hoàn thiện và phát triển nhanh hơn
Chẳng thể đẩy mạnh cổ phần hoá và phát triển công ty cổ phần mà thiếu một thị trường chứng khoán thực sự là thị trường chứng khoán được. Thị trường đó cần đủ hình hài, cần hiện diện từ khâu quản lý giám sát hoạt động huy động vốn đại chúng đến khâu mua đi bán lại chứng khoán. Hiện nay, thay vì cần dọn chỗ đưa những công ty đại chúng “trôi nổi” vào để có sự giám sát chặt chẽ hơn, ta lại phải đợi các công ty đó tình nguyện xin vào thì ta mới xét, thậm chí là xét chọn. Vừa xét xong là bước liền qua niêm yết. Điều này ẩn chứa một sự mặc nhận trái ngược với nguyên lý vận hành và yêu cầu thử thách dọn đường của TTCK. Thực tế, các công ty cổ phần dường như đang được thả lỏng quá trình phát triển thành công ty đại chúng. Có thể ví von các công ty đại chúng này như những “sản phẩm ngoài luồng”, lớn tới đâu không cần biết, cũng chỉ được chăm sóc như các “cháu lên ba” (công ty có 3 cổ đông) thôi! Khi nào muốn “vào luồng” thì làm đơn xin Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước xét để được công nhận là một công ty đại chúng của TTCK! Có phải đây là mấu chốt của một vấn đề mà ta đang loay hoay đi tìm lời giải ?
Hãy hình dung vào một thời điểm sau khi hội nhập, các nước trong khối AFTA, chẳng hạn, sẽ đề nghị ta cùng mở rộng thị trường vốn, thông qua hoạt động liên kết về giao dịch giữa các TTCK, hiệp thương niêm yết và đầu tư qua lại … Sẽ có biết bao chuyện mà ta cần phải đáp ứng. Đó có thể là yêu cầu về một thị trường tổ chức theo các nguyên tắc vận hành chung được thừa nhận; kỹ thuật giao dịch và cách hiểu phải tương đồng, nghiệp vụ và quy chuẩn phải đồng bộ. Điều cầm chắc nữa là yêu cầu về tiếng Anh tiêu chuẩn ngành dùng trong thông tin sẽ trở thành bắt buộc … Đối với nhiều nước Đông Nam Á, nếu cần ráp lại vào tuần sau hay tháng tới, có lẽ họ sẽ không gặp mấy khó khăn, nhưng Việt Nam thì xin chịu. Ngay cả đối với những gì ta đã mở (cho người ngoại quốc đầu tư từ 20% đến 30% tùy theo cơ chế) thì sự hưởng ứng sau hơn một năm qua có lẽ cũng làm ta sốt ruột?
Khi chuyển sang cơ chế thị trường ta chấp nhận cạnh tranh liên tục, để huy động sự trăn trở làm ăn và tư duy tháo vát cao trong toàn xã hội. Nay, bước tiếp theo của tiến trình là mở cửa hội nhập, ta chấp nhận cuộc đọ sức quyết liệt hơn. Nỗ lực mới có tầm quốc gia này là vận hội huy động tập trung tiềm năng, cần sự trở mình tổng lực, theo quy ước phát triển trong thử thách, với yêu cầu đồng bộ và chuyên nghiệp. Cho nên, vào giai đoạn trước mắt còn cho phép tập dượt này, nếu cần “sắm” thêm thứ gì để củng cố sức mạnh thì mong ta sẽ sắm cho thật “ngon” một lần. Đặc biệt, trong hàng ngũ tiến công vào hội nhập đó, không thể thiếu các công ty mạnh và một thị trường chứng khoán hiệu quả…
(Thời Báo Ngân Hàng Xuân Nhâm Ngọ 2002; Báo Đồng Nai; Tạp chí Chứng Khoán VN)